Kinh Tế

Tranh cãi thuế vàng

Thuế vàng: 0,1% hay 10%?

Theo VAFI, việc kinh doanh vàng trang sức và vàng miếng phải chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT) theo phương pháp khấu trừ như các hàng hóa thông thường một cách bình đẳng về nghĩa vụ chịu thuế với thuế suất 10%. Hiện nay, chính sách miễn thuế GTGT áp dụng đối với vàng miếng, còn vàng nữ trang được xác định trên cơ sở lấy giá bán trừ giá mua nhân với thuế suất 10%. Nếu chênh lệch giữa giá mua và bán là 3 triệu đồng, số thuế đóng là 300.000 đồng. Trường hợp tính theo phương pháp khấu trừ thuế khi xuất hóa đơn với giá 110 triệu đồng, trong đó bao gồm thuế suất 10%, tương đương 10 triệu đồng. Như vậy, số thuế GTGT thu được chênh nhau 30 lần giữa phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp về thuế GTGT.

Trên thế giới, nhiều quốc gia có tính thuế đối với vàng

VAFI tin tưởng rằng với việc sửa đổi chính sách này sẽ có tác dụng triệt tiêu hoàn toàn tình trạng đầu cơ ngắn hạn; chấm dứt hoàn toàn tình trạng đầu cơ lướt sóng, thổi giá kiếm lời. Đồng thời nhu cầu đầu cơ, đầu tư vào thị trường vàng sẽ giảm mạnh và dòng tiền sẽ chuyển hướng vào hệ thống ngân hàng; bảo vệ mạnh mẽ đồng nội tệ, dự trữ ngoại tệ tăng trong hệ thống ngân hàng. Tổ chức này ước tính dự trữ vàng của nước ta khoảng trên 2.000 tấn, tương đương khoảng 250 tỉ USD theo thời giá hiện nay. Đa phần 2.000 tấn này mua xong và “được để dưới gầm giường”, không trở lại hệ thống ngân hàng. Việc tích lũy vàng nguy hại hơn ngoại tệ vì khi người ta mua ngoại tệ mạnh thì đa phần lượng ngoại tệ này trở lại hệ thống ngân hàng. Trong trường hợp áp dụng thuế GTGT với vàng như hàng tiêu dùng thì ngân hàng có thêm 100 tỉ USD thay vì mất đi và dùng ngoại tệ này để thanh toán xuất nhập khẩu. Đồng nội tệ cũng mạnh lên rất nhiều vì lượng ngoại tệ này và Ngân hàng Nhà nước có thể dễ dàng bình ổn tỷ giá, hạ mạnh lãi suất huy động. “Sau khi có chính sách thuế vàng mới và thuế tài sản ở mức hợp lý thì Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn có thể duy trì chính sách lãi suất thấp, thấp hơn nhiều so với mặt bằng hiện nay mà vẫn đảm bảo ổn định tỷ giá”, công văn VAFI nêu.

Trước đó, tại cuộc họp thường kỳ Bộ Tài chính diễn ra vào đầu tháng 10, ông Lưu Đức Huy, Phó cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính) cho biết cơ quan này đang dự thảo trình Chính phủ xem xét áp dụng thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với giao dịch chuyển nhượng vàng miếng ở mức 0,1%/giao dịch, không áp dụng đối với vàng trang sức. Với mức thuế suất 0,1%, VAFI cho rằng bán 1 lượng vàng miếng SJC giá 100 triệu đồng thì người bán đóng thuế 100.000 đồng, mức này khá thấp thì không có tác dụng gì trong việc hạn chế dòng tiền khổng lồ đổ vào thị trường vàng.

Tranh cãi thuế vàng- Ảnh 2.

Đề xuất tính thuế cả người mua và người bán vàng

ẢNH: ĐÀO NGỌC THẠCH

Đánh thuế cao vì không khuyến khích tích trữ?

TS Nguyễn Ngọc Tú, giảng viên Trường ĐH Kinh doanh và công nghệ Hà Nội, cho rằng kiến nghị VAFI áp dụng tính thuế GTGT ở thuế suất 10% lên vàng là khá sốc. Bởi vàng vừa có chức năng tiền tệ nhưng cũng là hàng hóa. Những năm trước đây, vàng được xem là bản vị trong giao dịch mua bán nhà đất, xe… Xuất phát từ lý do đó, thời điểm xây dựng và áp dụng thuế GTGT, vàng được xem là hình thái tiền tệ nên không tính thuế GTGT, không tính thuế trên doanh thu. Còn vàng trang sức có sản xuất, pha chế nên tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, tính thuế trên phần chênh lệch giá mua và bán nên mức thuế thấp, phản ánh vào giá chấp nhận được. Thế nhưng những năm gần đây, vàng mang tính chất hàng hóa, như một kênh đầu tư, chính vì vậy ông Tú thừa nhận kiến nghị của VAFI tính thuế không phải không có lý. “Mấy năm nay giá vàng tăng cao, người bỏ ống đầu năm giá chưa đến 85 triệu đồng/lượng, nay bán ra khoảng 150 triệu đồng/lượng. Thêm vào đó, tình trạng chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước rất cao, từ 15 – 20 triệu đồng/lượng nên sẽ không tránh khỏi tình trạng buôn lậu, gây bất ổn tỷ giá xảy ra. Vì vậy, việc áp dụng tính thuế đối với vàng là điều cần làm”, ông Tú nói.

Dù vậy, ông Nguyễn Ngọc Tú nhận xét mức thuế suất GTGT 10% là quá sốc đối với vàng. Với mức thuế này, giá vàng 150 triệu đồng sẽ lên 165 triệu đồng. Điều này càng làm cho giá vàng trong nước cao hơn thế giới rất nhiều, kéo theo đó là buôn lậu, buôn bán vàng trên thị trường không chính thức gia tăng. Chính vì vậy, giữa 2 sắc thuế TNCN và GTGT, ông Tú cho rằng áp dụng thuế TNCN giai đoạn này là hợp lý. Tuy nhiên mức thuế suất 0,1% là khá thấp, cần tăng lên 0,5%. “Ngoài việc áp dụng thuế đối với hoạt động mua bán vàng, Ngân hàng Nhà nước cũng nên sớm đẩy nguồn cung ra thị trường để giá trong nước rút ngắn mức chênh lệch, cao hơn thế giới còn khoảng 3-5 triệu đồng là ổn. Chênh lệch được rút ngắn thì cũng không lo ngại buôn lậu, tác động lên tỷ giá và ảnh hưởng đến kinh tế”, ông Tú cho hay.

Ngược lại, luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty luật ANVI, bày tỏ ủng hộ quan điểm đánh thuế GTGT như đề xuất của VAFI. Bởi vàng đã được xem là một loại hàng hóa mà hiện các hàng hóa thiết yếu phục vụ đời sống người dân như gạo, rau, mắm muối… đều phải chịu thuế GTGT thì cớ gì vàng lại không bị tính thuế GTGT? Hơn nữa, vàng không được nhà nước khuyến khích mua bán tích trữ nên càng không được ưu đãi về thuế. Do vậy, thuế suất thuế GTGT với vàng cũng cần áp dụng ở mức phổ thông như nhiều hàng hóa khác là 10% (hiện nay đang được giảm còn 8%). Khi đã áp thuế GTGT 10% đối với vàng thì không nên tính thuế TNCN. Bởi việc thu thuế TNCN trên giá trị giao dịch sẽ chưa công bằng, nhất là đối với người dân đã mua tích lũy 1 chỉ, 2 chỉ vàng có khi 10 năm, 20 năm, giờ cần chi tiêu mang ra bán thì lại bị thu thuế nhiều. Đó là chưa kể giá vàng thường biến động mạnh, sáng tăng chiều giảm và việc đánh thuế TNCN trên giá trị giao dịch không đúng bản chất của sắc thuế này là chỉ đánh trên mức lãi.

Tranh cãi thuế vàng- Ảnh 3.

Tính thuế thu nhập trên lợi nhuận?

Chuyên gia tài chính ngân hàng, TS Nguyễn Trí Hiếu lại cho rằng nên đánh thuế trên lợi nhuận thay vì đánh thuế trên giá trị giao dịch vàng. Việc đánh thuế vàng trên giá trị giao dịch là chưa phù hợp, bởi số tiền người dân dùng để mua vàng thực chất có thể đã là thu nhập sau thuế từ lương hoặc kinh doanh. Nếu đánh thuế trên giá trị giao dịch sẽ dễ dẫn đến tình trạng “thuế chồng thuế”. Từ đó, ông Hiếu cho rằng nên quy định đánh thuế trên chênh lệch giá mua – giá bán, tức lợi nhuận phát sinh từ giao dịch vàng. Ví dụ mức thuế khoảng 20% trên lợi nhuận sẽ chính xác và hợp lý hơn. Bởi hiện nay, hầu hết các hoạt động tạo ra thu nhập, từ đầu tư của cá nhân, tổ chức cho đến thu nhập từ lao động, đều phải chịu thuế thu nhập. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý, việc đánh thuế trên lợi nhuận sẽ không dễ triển khai, do khó xác định giá đầu vào, nhất là với các trường hợp mua vàng từ hàng chục năm trước đây và người dân không còn lưu giữ chứng từ. 

Vì vậy, có thể Bộ Tài chính cần có phương án sử dụng giá bình quân tại một thời điểm nhất định, đồng thời yêu cầu người bán vàng khai báo thời điểm mua để xác định giá đầu vào. Giá bình quân do Bộ Tài chính công bố sẽ là cơ sở tính chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Theo đó, có thể áp dụng nhiều phương pháp, chẳng hạn tính giá bình quân trong khoảng thời gian 3 năm, 5 năm hoặc 10 năm. Trong khi đó, giá đầu ra dễ xác định hơn vì các giao dịch bán vàng đều phải qua các tiệm vàng, doanh nghiệp kinh doanh vàng được cấp phép. Khi có đủ giá đầu vào và giá đầu ra, việc tính lợi nhuận sẽ rõ ràng.

Trên thế giới, nhiều quốc gia có tính thuế đối với vàng. Các nước trên thế giới thường đánh thuế đối với loại hoạt động này với tên gọi là thuế lãi vốn (Capital Gains Tax – CGT). Đối tượng đánh thuế lãi vốn phổ biến nhất là chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng chứng khoán. Gần đây, một số nước đánh thuế lãi vốn đối với chuyển nhượng tài sản số và vàng. VAFI liệt kê tại Ấn Độ, người mua vàng chịu 3% trên tổng giá trị mua cho các loại vàng vật chất: vàng trang sức, vàng thỏi, vàng xu; Khi bán các loại vàng vật chất, vàng tài khoản mà có lãi thì người bán chịu thuế CGT là 12,5% với khoản đầu tư trên 2 năm, còn dưới 2 năm thì mức thuế được tính căn cứ vào thu nhập từng cá nhân. Thuế CGT được tính dựa trên cơ sở lấy giá bán trừ giá mua nhân với thuế suất. Thụy Sĩ áp dụng thuế GTGT 8% cho vàng trang sức và các loại vàng tiêu dùng. Thái Lan áp thuế GTGT 7% với các loại vàng có nguồn gốc nước ngoài. Riêng Pháp cho phép người bán lựa chọn 2 phương pháp: Khi bán vàng mà không chứng minh được giá mua hay không có hóa đơn mua vào thì phải chịu 12% thuế trên tổng giá trị mua vào (flat rate tax); chịu CGT 36,2% cho thời hạn đầu tư ngắn hạn dưới 1 năm, còn đầu tư dài hạn thì thấp hơn và tùy thuộc thời gian nắm giữ và giá trị sở hữu. 

Tương tự, Mỹ cũng áp dụng chung thuế CGT cho vàng vật chất, vàng tài khoản hay chứng chỉ đầu tư vào các quỹ ETF vàng; áp thuế CGT 37% cho thời gian nắm giữ dưới 1 năm, còn trên 1 năm thì CGT là 28%. Một quốc gia khác là Trung Quốc tính thuế GTGT cho kinh doanh vàng vật chất là 13% và kinh doanh vàng tài khoản chịu thuế CGT 20%. Nhật Bản thì người mua vàng chịu 10% thuế tiêu dùng (tính trên tổng giá trị mua). Riêng thuế CGT áp dụng cho kinh doanh vàng tài khoản và mức thuế CGT tùy thuộc vào việc đầu tư dài hạn hay ngắn hạn và phụ thuộc mức chịu thuế thu nhập cho từng cá nhân. Trong khi đó, ở Singapore người mua vàng vật chất chịu 9% thuế GST (goods & services tax – tính trên tổng giá trị mua vào). Hàn Quốc chỉ áp thuế GTGT 10% khi mua vàng vật chất. Trong khi đó, Anh áp dụng thuế suất đối với chuyển nhượng vàng của cá nhân là 12,5% tính trên lợi nhuận…

Giá vàng tăng hơn 10 triệu đồng/lượng trong tháng 10

Kết thúc tháng 10, giá vàng miếng SJC đã tăng 10,4 triệu đồng/lượng. Ngày 31.10, Công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn – SJC, Tập đoàn Doji mua vào 146,4 triệu đồng, bán ra 148,4 triệu đồng; Công ty Bảo Tín Minh Châu mua vào 146,9 triệu đồng, bán ra 148,4 triệu đồng; Công ty Phú Quý mua vào 145,9 triệu đồng, bán ra 148,4 triệu đồng… Giá vàng miếng SJC trong ngày tăng 600.000 đồng/lượng. Như vậy, những người mua vàng ở mức giá đỉnh lập trong tháng 10 (154,8 triệu đồng) lỗ mỗi lượng 8,4 triệu đồng.

Tương tự, vàng nhẫn cũng ghi nhận tháng tăng giá khá mạnh 14,4 triệu đồng/lượng. Công ty Bảo Tín Minh Châu là đơn vị có mức giá vàng nhẫn luôn cao nhất thị trường, ngày 31.10 mua vào ở mức 146,2 triệu đồng, bán ra 149,2 triệu đồng. Những người mua vàng nhẫn Bảo Tín Minh Châu ở đỉnh 160,5 triệu đồng/lượng nay lỗ 14,3 triệu đồng. Công ty Phú Quý mua vào 145,4 triệu đồng, bán ra 148,4 triệu đồng. Công ty SJC mua vào 143,6 triệu đồng, bán ra 145,1 triệu đồng… Vàng nhẫn tăng mỗi lượng từ 500.000 – 600.000 đồng.

Giá vàng trong nước tăng nhanh hơn thế giới. Kim loại quý thế giới tăng 140 USD/ounce, lên 4.004 USD/ounce. Trong tháng 10, giá vàng thế giới ghi nhận mức cao kỷ lục ở 4.380 USD/ounce.

Tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động kinh doanh vàng

Tại phiên thảo luận tình hình kinh tế – xã hội, Phó thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long cho rằng thời gian qua giá vàng thế giới có lúc lên đến 4.400 USD/ounce, kéo theo mức chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới có lúc gần 20 triệu đồng, có lúc thu lại 1 triệu đồng, mức co giãn này không chỉ diễn ra ở VN mà còn xuất hiện tại nhiều nền kinh tế lớn trong khu vực. Nguyên nhân có 3 yếu tố chính, đó là biến động địa chính trị toàn cầu; chính sách kinh tế và thương mại không nhất quán của các nước, đặc biệt là các nước lớn, có ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới; tâm lý đầu tư, tích trữ vàng trong nước, ảnh hưởng tới biến động của thị trường. Chính phủ đã xác định đây là vấn đề cần kiểm soát chặt chẽ. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tăng cường công tác nắm tình hình, nếu thanh tra ngân hàng không làm được thì thanh tra Chính phủ phải vào cuộc.

Để kiểm soát thị trường vàng, Phó thủ tướng Lê Thành Long cho biết Chính phủ đang triển khai 3 nhóm giải pháp đồng bộ: Sửa đổi Nghị định 24/2012 nhằm giảm bớt độc quyền vàng; xây dựng sàn giao dịch vàng bảo đảm công khai, minh bạch hóa hoạt động mua bán; tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động kinh doanh vàng.

Phó thủ tướng Lê Thành Long cũng thông tin: “GDP của chúng ta năm 2024 là khoảng 12 triệu tỉ đồng, trong khi tổng giá trị giao dịch mua bán vàng chỉ trong 9 tháng đầu năm 2025 đã đạt 23,3 nghìn tỉ đồng”. Quy mô này cho thấy sự cần thiết phải quản lý chặt chẽ, bảo đảm thị trường vàng vận hành ổn định, minh bạch và hiệu quả.

Nguồn