Vì sao thị trường “đỏ mắt” tìm?
| Việt Nam – nguồn cung gạo số lượng lớn, chất lượng cao, tốt cho sức khỏe người sử dụng và bền vững với môi trường. |
Thách thức nào đang níu chân “Gạo Việt xanh”?
Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” đã đạt được những thành công ấn tượng chỉ sau thời gian ngắn triển khai. Tính đến cuối tháng 11-2025, diện tích tham gia đã đạt gần 355.000 ha (hay chính xác là 354.839 ha), vượt gần 200% (hoặc 197%) so với mục tiêu đề ra. Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) cũng đã cấp chứng nhận “Gạo Việt xanh phát thải thấp” cho 8 doanh nghiệp với sản lượng ấn tượng, từ 70.000 tấn đến trên 70.000 tấn.
Lượng phát thải giảm được trong vụ Đông – Xuân 2024-2025 đạt 3,7 tấn CO2/ha (hoặc 3,7 tấn CO2 tương đương/ha/vụ), con số đã được tổ chức quốc tế Regrow kiểm định độc lập. Sản phẩm gạo “xanh” đã nhanh chóng khẳng định được vị thế trên thị trường quốc tế. Điển hình là lô 500 tấn gạo của Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (một doanh nghiệp được gắn nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp”) đã xuất khẩu sang Nhật Bản với giá 820 USD/tấn vào tháng 6-2025, ghi nhận nỗ lực chuyển đổi sản xuất.
Gạo Aan cũng được VIETRISA trao chứng nhận vào tháng 10 vừa qua, và Công ty TNHH Angimex Kitoku đang phát triển các giống lúa Nhật như Hana, Akita, Koshi để nhắm đến phân khúc thị trường cao cấp, đòi hỏi tiêu chuẩn môi trường khắt khe. Các doanh nghiệp ưu tiên xuất khẩu sang thị trường này vì lý do kinh tế rõ ràng. Giải thích về điều này, ông Huỳnh Thế Vinh, Giám đốc điều hành Công ty CP Vinh Hiển Farm, phân tích: “Để khuyến khích nông dân tham gia mô hình giảm phát thải, các doanh nghiệp phải mua lúa cao hơn so với quy trình sản xuất thường vài trăm đồng/kg nên sẽ ưu tiên xuất khẩu sang thị trường cao cấp với giá bán cao hơn.”
Thế nhưng, chính ở thị trường trong nước, nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” hầu như chưa thấy xuất hiện. Lý giải cho sự vắng mặt này, bà Dương Thanh Thảo, Phó Giám đốc Công ty CP Gạo Ông Thọ (TP HCM), cho biết doanh nghiệp có liên kết với nông dân trong đề án với diện tích 50 ha, bao tiêu sản lượng nhưng chưa ghi nhãn trên sản phẩm. Bà Thảo chia sẻ thẳng thắn: “Muốn phát triển một mã hàng, cần sản lượng đủ để cung cấp quanh năm trong khi lượng hàng hiện tại vẫn chưa đủ nên doanh nghiệp chỉ bán như sản phẩm thông thường. Hơn nữa, người tiêu dùng vẫn quan tâm đến các tiêu chí như chất lượng, giá cả và độ ngon, còn yếu tố ‘xanh’ chưa đóng vai trò quyết định. Có thể sau vài vụ nữa, khi sản lượng gạo nhiều hơn, chúng tôi sẽ mở mã hàng mới.”
Tương tự, Công ty CP Vinh Hiển Farm cũng chưa đưa ra dòng sản phẩm riêng. Thực tế, một số thương hiệu gạo bán tại siêu thị AEON, MM Mega Market… có ghi nhãn “gạo giảm phát thải” nhưng không sử dụng logo “Gạo Việt xanh phát thải thấp” của VIETRISA, và đang chờ phản hồi từ phía người tiêu dùng. Một rào cản khác là môi trường pháp lý trong nước. Đại diện một hệ thống bán lẻ thực phẩm cao cấp ở TP HCM cho hay Việt Nam hiện chưa bắt buộc sản phẩm phải có các chứng nhận liên quan đến giảm phát thải, bền vững… như châu Âu, mà mới chỉ khuyến khích tự nguyện. Do đó, từng doanh nghiệp tùy theo chiến lược của mình sẽ có cách làm khác nhau. Những doanh nghiệp có nhu cầu gọi vốn từ châu Âu sẽ chủ động thực hiện các quy trình chứng nhận. Sự chưa đồng bộ trong nhận thức thị trường và chính sách khuyến khích đang là thách thức lớn.
Tăng tốc và khai thác lợi thế vượt trội
![]() |
| Lô gạo Japonica được chứng nhận “Gạo Việt xanh phát thải thấp” xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. |
Mặc dù có thách thức về thị trường, lợi ích kinh tế, môi trường và thương hiệu mà mô hình giảm phát thải mang lại là không thể phủ nhận. Ông Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký VIETRISA, khẳng định vai trò kép của quy trình sản xuất này: “Quy trình sản xuất ‘Gạo Việt xanh phát thải thấp’ không chỉ bảo vệ môi trường mà còn giảm chi phí, từ đó nâng lợi nhuận cho nông dân.” Ông cũng thông tin thêm về kết quả: tính đến thời điểm kết thúc vụ hè thu 2025, Đề án có 354.839 ha tham gia, vượt 197% so với kế hoạch đề ra, và 8 doanh nghiệp với trên 70.000 tấn gạo được cấp chứng nhận.
Cụ thể, nông dân tham gia đề án đã giảm chi phí sản xuất đáng kể, từ 1,7-4,9 triệu đồng/ha so với sản xuất ngoài mô hình, tương đương giảm giá thành 326-1.052 đồng/kg lúa tươi. Hiệu quả này đến từ việc lượng giống gieo sạ giảm 50%-65% (tiết kiệm khoảng 70-130 kg/ha), lượng phân đạm trung bình giảm 31,3%, giảm 1-3 lần phun thuốc bảo vệ thực vật và cắt giảm lượng nước tưới (rút nước ít nhất 2-3 lần/vụ). Quan trọng hơn, năng suất lúa lại tăng từ 1,4-15,9 tạ/ha, tương đương 3,2%-22,1% so với canh tác truyền thống. Mô hình này áp dụng kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ với thiết bị IoT để điều chỉnh bơm tưới, giúp giảm lượng mê-tan (khí thải chính trong lúa nước) từ 30%-50% và giảm 30%-50% lượng phân hóa học như ure.
Về mặt chất lượng sản phẩm, ông Võ Hoàng Tân, Giám đốc Công ty CP Thương mại Dịch vụ Saty, cho biết: “Việc sản xuất giảm phát thải không trực tiếp làm gạo ngon hơn. Thế nhưng, các yếu tố như gieo trồng đúng giống, canh tác hướng hữu cơ sẽ giúp sản phẩm có hương vị chuẩn và an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng.” Ông Tân nhấn mạnh thêm về yêu cầu minh bạch: “Người tiêu dùng hiện nay quan tâm đến nguồn gốc thực tế sản phẩm. Hệ thống của Saty cung cấp dữ liệu real-time (thời gian thực), cho phép khách hàng thấy rõ nhật ký canh tác, tình trạng đồng ruộng và quy trình sử dụng phân thuốc, thay vì chỉ tin vào nhãn mác. Việc sản phẩm gạo giảm phát thải là điểm cộng với người tiêu dùng.”
PGS-TS Bùi Bá Bổng, Chủ tịch VIETRISA, nhìn nhận về sự thay đổi của ngành gạo: “Hạt gạo Việt những năm gần đây đã ‘bước qua lời nguyền’ gạo chất lượng thấp, giá rẻ… Thành tựu đặc biệt của ngành lúa gạo Việt Nam chính là sự chuyển đổi sang chất lượng cao nhưng không làm giảm năng suất mà vẫn giữ vị trí ở top đầu thế giới – đó là nét đặc sắc của lúa gạo Việt Nam.” Ông cũng khẳng định thêm: “Lượng phát thải khí nhà kính đã được tổ chức quốc tế Regrow kiểm định độc lập. Đây là cơ sở để làm rõ lợi thế của gạo carbon thấp.” Ông Bổng đúc kết về vai trò tiên phong: “Làm được điều này Việt Nam sẽ là nước tiên phong trên thế giới sản xuất lúa gạo giảm phát thải (low carbon) trên quy mô lớn.”
Đặc biệt, dự án “Chuyển đổi chuỗi giá trị lúa gạo ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững tại ĐBSCL (TRVC)” do Bộ Nông nghiệp và Môi trường và Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV) đang được xem là “mô hình lõi” của Đề án 1 triệu ha. TS Trần Thu Hà, Giám đốc Dự án TRVC, giải thích: “TRVC ứng dụng hệ thống theo dõi thực hành nông học tới cấp ô ruộng thông qua ảnh vệ tinh, sử dụng mô hình sinh địa hóa (DNDC) để tính toán lượng phát thải… Đây là nền tảng quan trọng để hình thành tín chỉ carbon cho ngành lúa gạo.” Dự án này còn giúp Công ty TNHH Angimex Kitoku tiếp cận nguồn tín dụng xanh từ Ngân hàng MUFG (Nhật Bản).
Ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật, khẳng định tầm quan trọng của giai đoạn hiện tại: “Không lúc nào bằng lúc này, chúng ta hiện có đủ các yếu tố cần thiết để phát triển một ngành hàng là thị trường – kỹ thuật – chính sách và quyết tâm để đưa hạt gạo Việt Nam bước sang một trang mới: xanh hơn, sạch hơn, cạnh tranh hơn. Mỗi đơn vị sẽ trở thành một mắt xích mạnh, góp phần tạo ra một hệ sinh thái triệu héc ta. Nó không chỉ đạt về con số diện tích, mà còn đạt giá trị mới cho nông dân và ngành hàng lúa gạo Việt Nam”.

