Thương Hiệu

An Giang bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Nhiều di sản văn hóa đứng trước nguy cơ mai một

Nghi thức Lễ hội cấp quốc gia Vía Bà Chúa Xứ núi Sam.

Nhiều di sản văn hóa của đồng bào dân tộc ở An Giang đứng trước nguy cơ mai một đòi hỏi có những giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong quá trình hội nhập. Là địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tỉnh An Giang sở hữu kho tàng di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, đa dạng của cộng đồng các dân tộc Kinh, Khmer, Chăm, Hoa.

Hơn 100 lễ hội lớn nhỏ hàng năm, cùng với nhiều làng nghề thủ công, nghệ thuật trình diễn, ẩm thực, trang phục, tri thức dân gian, tôn giáo tín ngưỡng, tập quán cộng đồng… chứng minh cho quá trình tồn tại, khai phá, chinh phục vùng đất mới đầy khó khăn của tiền nhân, nhưng tổng hòa thành nét văn hóa độc đáo, đặc sắc của hệ thống di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh An Giang. Đây là nguồn tài nguyên quý giá, nguồn lực quan trọng để phát triển du lịch, góp phần vào phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.

An Giang có đông đồng bào dân tộc thiểu số cùng sinh sống, ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số, toàn tỉnh có 28 dân tộc thiểu số, trong đó, người Khmer chiếm 3,98%, người Chăm chiếm 0,59%, người Hoa chiếm 0,27%, còn lại là đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Thái. Mỗi dân tộc thiểu số sở hữu phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, nghề thủ công và nghệ thuật trình diễn dân gian đa dạng, phong phú… góp phần tạo nên bức tranh văn hóa An Giang sinh động, đa màu sắc. Đây cũng là tiềm năng to lớn trong phát triển du lịch địa phương.

Hiện toàn tỉnh An Giang có 90 di tích được xếp hạng, trong đó, có 2 di tích là chùa Xvayton của dân tộc Khmer (huyện Tri Tôn) và Thánh đường Hồi giáo Mubarak của dân tộc Chăm (thị xã Tân Châu) được xếp hạng cấp quốc gia; 2 di tích cấp tỉnh là chùa Snay Don Kum và chùa Svay Ta Nấp của dân tộc Khmer (huyện Tri Tôn). Song song đó, An Giang hiện có 8 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục Di sản Văn hóa phi Vật thể cấp Quốc gia, trong đó, có 6 di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer, Chăm.

Dân tộc Khmer là cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời trên vùng đất An Giang, tập trung đông nhất ở 2 huyện miền núi Tri Tôn và Tịnh Biên; sở hữu kho tàng di sản văn hóa đặc sắc và đa dạng. Bốn di sản của đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang gồm Hội đua bò Bảy Núi; Tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá buông; Nghệ thuật trình diễn Dù Kê xã Ô Lâm và Nghề làm đường thốt nốt.

Những năm gần đây, quá trình hội nhập quốc tế, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia – dân tộc diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Bên cạnh tác động tích cực, trong hội nhập quốc tế cũng tạo ra những nguy cơ, thách thức đối với sự phát triển bền vững xã hội; nhiều giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là của các dân tộc thiểu số bị mai một, lãng quên; nhiều nghề thủ công truyền thống vốn là minh chứng cho óc sáng tạo, sự khéo léo của người Việt Nam có nguy cơ mất đi.

Bên cạnh những kết quả đạt được về công tác phát huy sức mạnh, giá trị văn hóa để hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững thì trên địa bàn tỉnh An Giang vẫn còn một số bất cập, hạn chế. Cụ thể là đầu tư cho văn hóa tuy được quan tâm, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu; công tác đầu tư bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa một số nơi chưa tương hợp tình hình thực tế, nhiều di sản văn hóa có nguy cơ mai một, nhưng chưa có các chương trình hỗ trợ bảo tồn;

Ngoài ra, ông tác tuyên truyền, quảng bá văn hóa, đặc biệt là văn hóa-nghệ thuật truyền thống và công tác giáo dục, định hướng văn hóa, thẩm mỹ trong nhân dân, nhất là đối với thanh, thiếu niên, học sinh, công nhân… chưa được đầu tư đúng mức; chưa tạo được cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích đối với những người làm công tác văn hóa.

Công tác quy hoạch, đầu tư phát triển thiết chế văn hóa còn chậm, chưa có sự đầu tư và kế hoạch khả thi để xây dựng các công trình văn hóa-nghệ thuật có giá trị lâu bền; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu, chưa đáp ứng kịp với tình hình thực tế ở một số lĩnh vực vốn mang tính định tính và nhạy cảm; còn nhiều bất cập giữa bảo tồn và phát triển trong việc khai thác các giá trị văn hóa phục vụ phát triển du lịch.

Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

An Giang bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
Nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Chăm An Giang.

Thời gian qua, các di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng trên địa bàn tỉnh An Giang đều được quản lý, trùng tu, tôn tạo để bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa theo quy định Luật Di sản văn hóa. Để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của di sản văn hóa, khuyến khích cộng đồng tích cực tham gia bảo tồn, giữ gìn bản sắc, kiến trúc nghệ thuật, nét văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc thiểu số cùng sinh sống trên địa bàn tỉnh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đã tiến hành kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa di sản hóa truyền thống tiêu biểu của đồng bào dân tộc thiểu số Chăm, Khmer trên địa bàn 16 xã thuộc 5 địa phương gồm các huyện Tri Tôn, Thoại Sơn, An Phú, thị xã Tịnh Biên và thị xã Tân Châu.

Qua kiểm kê di sản văn hóa vật thể tại 16 cơ sở thuộc loại hình tôn giáo của đồng bào dân tộc Chăm (chưa bao gồm 1 thánh đường đã xếp hạng di tích) và 52 cơ sở thuộc loại hình tôn giáo của đồng bào dân tộc Khmer (chưa bao gồm 3 chùa đã xếp hạng di tích), kết quả cho thấy, các di tích chùa của đồng bào Khmer và thánh đường, tiểu thánh đường của đồng bào Chăm không chỉ là công trình phục vụ nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng, mà còn là biểu trưng văn hóa của cộng đồng, gắn liền với sinh hoạt đời sống, các lễ nghi, phong tục của đồng bào dân tộc thiểu số và là nơi dạy chữ viết cho đồng bào dân tộc.

Hiện nay, các công trình đều được bảo tồn khá tốt, hạng mục công trình chính tương đối bền vững, việc tu sửa chống xuống cấp được thực hiện thường xuyên, đảm bảo giữ được yếu tố gốc là kiểu kiến trúc công trình theo môtíp truyền thống đặc trưng, các hoa văn, họa tiết trang trí ảnh hưởng sâu sắc yếu tố tôn giáo và bản sắc văn hóa dân tộc.

Việc quản lý các di tích chủ yếu do ban đại diện của chùa, thánh đường quản lý theo trật tự của mỗi tôn giáo, dưới sự định hướng của chính quyền địa phương, nhằm đảm bảo tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Nhân dân, hoạt động theo phương châm “tốt đời, đẹp đạo.”

Riêng đối với các di sản văn hóa phi vật thể, qua công tác kiểm kê, lấy thông tin đối với các loại hình, như: Tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội; lễ hội truyền thống; nghề thủ công truyền thống; tri thức dân gian liên quan đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đồng bào dân tộc Chăm, Khmer, cho thấy hầu hết các loại hình di sản vẫn còn đang tồn tại nhưng ở các mức độ khác nhau.

Tiếng nói, chữ viết được gìn giữ, sử dụng trong đời sống hàng ngày, kể cả trong sinh hoạt tôn giáo và truyền dạy thông qua việc mở lớp ở chùa, thánh đường; các phong tục, lễ nghi liên quan đến đời sống, sản xuất, tôn giáo, tín ngưỡng vẫn còn thực hành trong Nhân dân; lễ hội truyền thống tồn tại khá phong phú; tập quán xã hội có một số lễ thức được giản lược, mang tính tượng trưng.

Qua kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa các di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số cho thấy hiện vật di sản văn hóa của đồng bào Khmer, Chăm vẫn còn sử dụng thường xuyên trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Một số hiện vật tuy không còn sử dụng nhưng vẫn được trân trọng, cất giữ, trao truyền lại cho con cháu.

Điển hình, tại chùa Sà Lôn (huyện Tri Tôn) hiện còn lưu giữ, trưng bày các hiện vật nông cụ, vật dụng sinh hoạt truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer, với số lượng phong phú. Để phục vụ công tác nghiên cứu về di sản văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đã hoàn thiện 1.053 mẫu phiếu ghi chép thông tin các loại hình di sản văn hóa; số hóa, lưu trữ, đảm bảo truy xuất thông tin nhanh và chính xác.



Nguồn