Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh
Là một trong những bảo tàng đầu tiên ở Việt Nam, do người Pháp xây dựng, Bảo tàng Nam Kỳ (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. HCM) đã qua nhiều lần đổi tên, qua các giai đoạn lịch sử, nhưng vẫn nhất quán chức năng ban đầu của kiến trúc: là bảo tàng. Đây cũng là một công trình đặc sắc, một đại diện tiêu biểu kiến trúc Đông Dương ở đất Sài Gòn.
Lịch sử của Bảo tàng lịch sử
Bảo tàng lịch sử Việt Nam – TP. HCM (có địa chỉ tại số 2 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Bến Nghé, quận 1, TP. HCM); khởi công năm 1926 và hòan thành xây dựng năm 1928; khởi nguyên có tên gọi Bảo tàng Nam Kỳ. Công trình được xây dựng theo đồ án thiết kế của KTS Auguste Delaval (Pháp).
Bảo tàng ra đời xuất phát từ đề nghị của Hội Nghiên cứu Đông Dương (Socíete des Etudes Indochinoises) ở Sài Gòn (Nam Kỳ). Ý định thành lập bảo tàng có từ năm 1882 khi Hội nghiên cứu Đông Dương cần một cơ sở để lưu trữ, bảo quản hiện vật và nghiên cứu. Trong suốt một thời gian dài, Hội Nghiên cứu Đông Dương kiên trì vận động việc thành lập bảo tàng ở cả phía chính quyền và xã hội.
Cuối cùng, bảo tàng cũng được ra đời. Ngày 24-11-1927, Thống đốc Nam kỳ Blanchard de la Brosse ra nghị định thành lập Bảo tàng Nam Kỳ (Musée de la Cochinchine) với trụ sở được chọn như hiện nay – là tòa nhà lớn đang xây vào năm đó. Công trình nằm trong Thảo Cầm viên Sài gòn (ở phía trái cổng vào, sử dụng chung cổng ra vào với Thảo Cầm Viên). Khi khởi công, công trình này được dự kiến làm Bảo tàng Lúa gạo (Musée du Riz); rồi lại sau định làm Viện Triển lãm Kinh tế (Musée Économique). Nhưng cái tên khởi nguyên là Bảo tàng Nam Kỳ không tồn tại lâu. Để cho thấy vai trò của người Pháp ở Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung, ngày 6-8-1928, có một nghị định đổi tên Bảo tàng Nam Kỳ thành Bảo tàng Blanchard de la Brosse – tên thống đốc Nam Kỳ đã ký quyết định thành lập bảo tàng. Bảo tàng Blanchard de la Brosse đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của chính quyền Nam Kỳ, và thuộc quyền quản lý khoa học của Viện Viễn Đông Bác cổ (có trụ sở tại Hà Nội). Và ngày 1-1-1929, Bảo tàng được khánh thành và chính thức ra mắt công chúng. Trong thời gian đầu, Bảo tàng có khoảng 3000 hiện vật.
Ngày 2-9-1945, Việt Nam giành được độc lập. Bộ Quốc gia Giáo dục – chính quyền mới của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đổi tên Bảo tàng Blanchard de la Brosse thành Gia Định Bảo tàng Viện.
Ngày 14-6-1954, Bảo tàng được Bộ Quốc gia Giáo dục của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tiếp thu trọn vẹn. Tới ngày 16/5/1956, Bảo tàng được đổi tên là Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục – Việt Nam Cộng hòa. Ngày 03-9-1958, Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam chính thức mở cửa đón khách tham quan.
Sau ngày 30-4-1975, Bảo tàng được được Chính quyền cách mạng tiếp quản. Và ngày 26-8-1979, ngành chức năng đã cho đổi tên là Bảo tàng Lịch sử TP. HCM. Sau đổi lại thành Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. HCM – tên này được giữ cho đến nay. Tuy vậy, cái tên Bảo tàng Nam Kỳ vẫn được gọi như một dấu ấn của lịch sử kiến trúc.
Dấu ấn kiến trúc Đông Dương
Bảo tàng Nam Kỳ được thiết kế bởi KTS Auguste Delaval (Pháp). Công trình mang phong cách kiến trúc Đông Dương, một phong cách khá phổ biến và phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn từ những năm 1920 tới 1945 ở Việt Nam, đặc biệt là Hà Nội và Sài Gòn. Các KTS Pháp và cả những KTS Việt Nam đã có những tìm tòi, sáng tạo, kết hợp giữa kiến trúc châu Âu và kiến trúc bản địa, khai thác các yếu tố truyền thống và đặc điểm khí hậu địa phương.
Công trình có mặt bằng đối xứng, với một khối đại sảnh ở giữa có mặt bằng hình bát giác. Cấu trúc của công trình giống như một toà công thự phương tây, mang cảm giác uy nghi. Kết cấu bê tông cốt thép với những hệ dầm sàn ô cờ vượt được nhịp lớn, tạo nên những không gian trưng bày lớn. Khối đại sảnh như một điểm nhấn của công trình, vươn cao với hai tầng mái dốc đầy ấn tượng, các đao mái có các hình trang trí rồng phượng cách điệu. Phía trước là khối tiền sảnh, với bộ mái dốc – 4 mái, gợi âm hưởng kiến trúc ngôi nhà truyền thống. Tất cả hệ thống mái đều lợp ngói âm dương, và đua ra khỏi tường bằng những công son.
Mặt trước công trình với hình thức kiến trúc cổ điển đăng đối, với khối sảnh có mặt bằng hình bát giác gợi sự liên tưởng tới bát quái trong Kinh dịch
Hai dãy nhà hai bên khối đại sảnh có cấu trúc hình chữ U, khép kín với khối đại sảnh, tạo nên hai sân trong nho nhỏ ở hai phía. Ở “đáy” chữ U, phía đầu hồi công trình là khối kiến trúc cũng có cấu trúc mặt bằng hình bát giác.
Góc nhìn phía sau công trình
Trước hai dãy nhà là một hệ thống “pergola” (giàn cây leo) bằng bê tông – rất đặc trưng của kiến trúc phương Tây. Phần này không hẳn chỉ là để chức năng cho cây leo, mà là một thành phần trang trí quan trọng cho công trình, cũng như định tuyến giao thông.
Các trang trí kiến trúc trên mặt tiền, nội thất sử dụng nhiều những chi tiết, họa tiết, hoa văn… mang âm hưởng truyền thống Á Đông và Việt Nam. Tất cả hài hòa, kết nối logic trong một tổng thể chung của công trình.
Năm 1970, do nhu cầu mở rộng phần trưng bày, bảo tàng được xây dựng thêm phần nhà phía sau. Công trình xây thêm có hình chữ U, với hai dãy nhà cầu nối vào công trình cũ và khối nhà sau cùng cao 3 tầng, tạo nên một sân trong khá lớn ở giữa. Tác giả của thiết kế này là KTS Nguyễn Bá Lăng. Cấu trúc không gian phần xây mới bổ sung vẫn tôn trọng trên nền kiến trúc cũ, song có giản lược hơn ở phần chi tiết.
Sảnh của công trình có mặt bằng hình bát giác, là một khoảng trống hút cao lên tới mái
Dòng chảy lịch sử Việt Nam ở đất phương Nam
Cùng với Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Hà Nội, Bảo tàng lịch sử Việt Nam – TP Hồ Chí Minh là bảo tàng lịch sử có quy mô trưng bày lớn nhất về suốt chiều dài lịch sử của đất nước Việt Nam. Bên cạnh đó, Bảo tàng còn kế thừa được nhiều cổ vật, hiện vật quý – đặc biệt ở phạm vi địa lý Nam Bộ – từ thời Bảo tàng Nam Kỳ của Hội Nghiên cứu Đông Dương.
Các góc khối sảnh bát giác nhìn từ sân trong
Hiện tại, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam có 18 không gian trưng bày, trong đó có 10 không gian trưng bày lịch sử theo thời gian, 6 không gian trưng bày chuyên đề trong nhà, 1 không gian trưng bày chuyên đề ngoài trời và 1 không gian trưng bày ngắn hạn. Xếp theo tiến trình tham quan, đó là các không gian trưng bày:
- Thời tiền sử;
- Thời sơ sử – Hùng Vương dựng nước;
- Thời Bắc thuộc – đấu tranh giành độc lập;
- Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê – Lý;
- Thời Trần – Hồ;
- Văn hóa Chăm Pa
- Văn hóa Nam Bộ
- Tượng Phật các nước châu Á
- Thời Lê sơ – Mạc – Lê Trịnh – Tiền Nguyễn
- Trưng bày ngoài trời – Súng thần công
- Thời Tây Sơn
- Thời Nguyễn
- Điêu khắc đá Campuchia
- Gốm một số nước châu Á
- Xác ướp Xóm Cải – TP Hồ Chí Minh
- Sưu tập Vương Hồng Sển
- Văn hóa dân tộc các tỉnh phía Nam
- Chuyên đề ngắn hạn
Hiện nay, Bảo tàng lưu trữ hơn 30.000 hiện vật và trên 25.000 đầu sách, báo, tư liệu, tài liệu có giá trị đặc biệt trong các chuyên ngành lịch sử, dân tộc học, khảo cổ học, bảo tồn – bảo tàng. Tính tới thời điểm hiện tại, Bảo tàng có 12 hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia, bao gồm: 5 bức tượng Phật được chế tác bằng chất liệu đồng, đá sa thạch, gỗ mù u, gỗ sao, gỗ bằng lăng; 3 tượng Quan Thế Âm Bồ Tát được chế tác từ đồng, đá sa thạch; tượng nữ thần Devi được chế tác từ đá sa thạch; tượng thần Vishnu được chế tác từ đồng; tượng thần Surya được chế tác từ đá sa thạch; tượng nữ thần Durga từ đá sa thạch. Những bảo vật này thuộc các nên văn hóa Chăm Pa và Phù Nam – Óc Eo.
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP Hồ Chí Minh không chỉ là một nơi lưu giữ và trưng bày những tư liệu lịch sử của đất nước – là một không gian chứa đựng dòng chảy lịch sử Việt Nam ở đất phương Nam; mà còn là một trung tâm nghiên cứu hàng đầu về lịch sử. Bản thân công trình cũng là một tác phẩm kiến trúc đặc sắc có những dấu ấn lịch sử của riêng mình. Công trình đã được Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch công nhận là Di tích kiến trúc – nghệ thuật Quốc gia năm 2012.
Bài và ảnh: Hà Thành
© Tạp chí kiến trúc