Thế Giới

Chúng tôi sẽ phá sản nếu chuyển sản xuất về quê nhà

Bất chấp các mức thuế nhập khẩu cao mà chính quyền Mỹ áp đặt nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Mỹ vẫn gặp khó khăn trong việc dịch chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc.

Nguyên nhân không chỉ do chi phí lao động thấp, mà còn vì Trung Quốc sở hữu chuỗi cung ứng tích hợp, nguồn nguyên liệu đầu vào, máy móc nội địa và kỹ năng chuyên môn vượt trội.

Beth Benike – CEO của Busy Baby tại Minnesota – từng cân nhắc đưa sản xuất các sản phẩm cho trẻ nhỏ về Mỹ nhưng cho biết điều đó là không khả thi. “Chúng tôi sẽ phá sản trước khi có thể bắt đầu vận hành ở nơi khác”.

Viahart – công ty đồ chơi giáo dục có trụ sở tại Texas – cũng từng nỗ lực rút khỏi Trung Quốc. Nhưng vào năm 2016, một đối tác trong nước báo giá tăng tới 210% cho sản phẩm của công ty. Năm ngoái, Viahart không tìm được nguồn cung nguyên liệu nhồi bông ổn định và nhân công với chi phí hợp lý để sản xuất thú nhồi bông TigerHart tại Mỹ.

Khi Tổng thống Donald Trump dọa áp thuế 145% với hàng Trung Quốc vào tháng 4, Viahart đã dừng nhập khẩu và trông chờ vào hàng tồn kho dự kiến chỉ đủ dùng đến tháng 10. Tuy nhiên, chi phí sản xuất trong nước cũng tăng do nguyên vật liệu vẫn nhập từ Trung Quốc. “Thuế quan không giúp được gì, thậm chí còn khiến máy móc tăng giá tới 145%”, nhà sáng lập Molson Hart chia sẻ.

Do chi phí vận hành cao, các nhà máy Mỹ thường yêu cầu đơn hàng lớn – điều mà doanh nghiệp nhỏ như Busy Baby không đáp ứng được. “Chúng tôi quá nhỏ để sản xuất với số lượng lớn”, Benike nói.

Elenor Mak – nhà sáng lập Jilly Bing – vẫn sản xuất toàn bộ sản phẩm tại nhà máy ở Đông Quan (Trung Quốc), từ búp bê nhựa vinyl cao cấp đến phụ kiện, tóc và linh kiện nhập từ các nhà cung ứng gần đó. “Việc làm ra những con búp bê này cực kỳ chính xác và cần kỹ năng chuyên biệt cao”, Mak nói. Bà cho rằng hiện không quốc gia nào có nhà máy búp bê cao cấp với kinh nghiệm và mức giá phù hợp như Trung Quốc.

Dù một số nhà máy Trung Quốc đã chuyển sang nơi khác nhằm tránh thuế và giảm chi phí nhân công, nhưng theo Mak, “không có lựa chọn nào thay thế đủ tốt và Trung Quốc vẫn là giải pháp khả thi duy nhất”.

Benike cũng không có kế hoạch rời Trung Quốc do chi phí chuyển đổi khuôn mẫu lên đến hàng chục nghìn USD và mất vài tháng để hoàn tất.

Theo Kyle Chan, nghiên cứu viên tại Đại học Princeton, định kiến về hàng Trung Quốc giá rẻ vẫn tồn tại trong người tiêu dùng Mỹ nhưng chất lượng đã cải thiện vượt bậc trong 2 thập kỷ qua.

“Cạnh tranh sản xuất tại Trung Quốc không chỉ đến từ giá rẻ, mà còn ở khả năng linh hoạt và phản ứng nhanh. Nhiều doanh nghiệp Mỹ tồn tại được là nhờ sự thích nghi của đối tác Trung Quốc”, Chan nhận định.

Trung Quốc hiện chiếm hơn 1/3 sản lượng công nghiệp toàn cầu với mạng lưới chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, từ nguyên liệu, linh kiện đến sản phẩm hoàn thiện.

Rủi ro chính sách và chi phí leo thang

Tình trạng bất định gia tăng khi chính sách thương mại Mỹ thay đổi liên tục. Giữa tháng 5, ông Trump cắt giảm thuế từ 145% xuống còn 30% sau các cuộc đàm phán song phương. Tuy nhiên, các chính sách thường xuyên bị đảo ngược khi tòa án liên bang tuyên bố áp thuế là hành vi vượt quyền tổng thống, nhưng sau đó toà phúc thẩm lại khôi phục chính sách thuế.

Sự bất ổn khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ trì hoãn quyết định đầu tư và đối mặt với áp lực chi phí ngày càng tăng. Nhiều doanh nghiệp buộc phải cân nhắc tăng giá, cắt giảm nhân sự hoặc ngừng hoạt động.

Chi phí vận chuyển hàng hóa xuyên Thái Bình Dương cũng tăng vọt, lên hơn 3.000 USD cho một container 40 feet do nhu cầu tăng mạnh.

Dù Mỹ và Trung Quốc đạt thỏa thuận tạm ngưng áp thuế hồi đầu tháng 5, nhiều nhà máy Trung Quốc vẫn ưu tiên đơn hàng lớn từ các tập đoàn lớn. Điều này khiến các doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn trong việc đặt hàng và giao hàng kịp trước đợt tăng thuế dự kiến vào tháng 8.

Theo Phòng Thương mại Mỹ, các doanh nghiệp nhỏ tuyển dụng gần một nửa lực lượng lao động và chiếm 1/3 tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, biên lợi nhuận thấp khiến họ đặc biệt nhạy cảm với biến động chi phí.

Báo cáo của Ủy ban Kinh tế Lưỡng đảng Quốc hội Mỹ công bố trong tháng này cho biết việc làm tại các doanh nghiệp dưới 10 lao động đã giảm 3% (tương đương 366.000 việc làm) kể từ khi ông Trump bước vào nhiệm kỳ thứ 2.

Chỉ số Niềm tin Doanh nghiệp nhỏ của Liên đoàn Kinh doanh Độc lập Quốc gia (NFIB) cũng giảm xuống 95,8 điểm, dưới mức trung bình 51 năm là 98 điểm.

“Niềm tin doanh nghiệp nhỏ giảm trên cả 4 lĩnh vực, đặc biệt ở bán lẻ và sản xuất, do lo ngại về triển vọng kinh doanh, gián đoạn chuỗi cung ứng và chất lượng lao động”, bà Holly Wade, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu NFIB, cho biết.

Tham khảo: Nikkei Asia

Nguồn