Hồi sinh di sản kiến trúc từ trái tim Warsaw
Trên thế giới, mỗi cuộc chiến tranh xảy ra, thủ đô của các quốc gia nơi đó thường hứng chịu nặng nề nhất sự mất mát, một trong những cái nhìn thấy nhanh nhất, rõ nhất có lẽ là kiến trúc. Chiến tranh đi qua, công cuộc tái thiết đặt ra trăm nghìn vấn đề mà mỗi quốc gia, thủ đô phải lựa chọn, ưu tiên, liệu kiến trúc có nằm trong số đó? – Nếu có tái thiết lại thủ đô từ đống tro tàn, đổ nát, vấn đề đặt ra cho kiến trúc là xuất phát từ đâu, phục hồi lại các công trình như trước đó hay xây dựng mới bề thế hơn, phục dựng các di sản kiến trúc bị chiến tranh tàn phá hay để nguyên, chỉ làm một số điểm hay cả khu vực… những trăn trở đó quốc gia nào đã trải qua cuộc chiến đều thấu hiểu và lựa chọn đường đi cho riêng mình. Tuy nhiên, đối với những thành phố cổ kính, lâu đời, nhiều công trình kiến trúc di sản bị phá hủy trong chiến tranh mà được phục dựng một cách đồng bộ, hệ thống, bài bản và sau đó được UNESCO công nhận là di sản thế giới, có lẽ trên thế giới này chỉ có phố cổ Warsaw – Thủ đô của Ba Lan.
Giờ đây nếu ai đến Warsaw lần đầu có thể cảm nhận về một trung tâm Warsaw cổ kính, xinh đẹp với các công trình kiến trúc đặc trưng của thế kỷ XII-XIII có thể thấy đâu đó ở các nước trung Âu. Nhưng nếu ai đó đi chậm trên con đường lát đá đến với các nhà thờ, quảng trường, cung điện…, nhìn những mô hình mô phỏng, hình ảnh giới thiệu bên đường và trong các tòa nhà mới nhận ra đây là không gian, công trình được phục dựng sau chiến tranh, cũng có thể cảm nhận mức độ quy mô của không gian này cách đây 700 năm và sức sống ngày nay. Nhưng có lẽ hơn hết là sự khâm phục về thành tựu hồi sinh di sản kiến trúc đô thị sau chiến tranh, nơi đó có sự hài hòa giữa kiến trúc cổ, cũ và mới, còn lắng đọng những câu chuyện, sự kiện, nhân vật lịch sử trong từng ngôi nhà, góc phố, quảng trường, trong đó có luyến tiếc về sự mất mát và cả niềm kiêu hãnh, tự hào của chính quyền và người dân Warsaw.
Không chỉ lúc trở về mà ngay tại khu phố cổ Warsaw cũng có người đặt câu hỏi: Tại sao người Ba Lan có thể làm được việc đó sau chiến tranh? Sức mạnh nào, phương thức nào để họ phục dựng lại phố cổ từ đống tro tàn đổ nát sau chiến tranh thế giới thứ II trở thành di sản sống động như ngày nay? Và, chắc là còn nhiều câu hỏi khác nữa, nhất là giới kiến trúc và bảo tồn di sản.
Điều đầu tiên và cũng mang tính cốt lõi ở đây là nhận thức – Nhận thức đã tác động chi phối toàn diện quan điểm và phương thức bảo tồn di sản kiến trúc. Công cuộc bảo tồn di sản không chỉ thuộc về giới chuyên môn và còn là trách nhiệm của chính quyền và người dân. Trong chính sách di sản văn hóa của Ba Lan, bảo tồn di sản văn hóa cho các thế hệ mai sau không chỉ có ý nghĩa với giới khảo cổ và khoa học mà còn có chức năng về kinh tế và xã hội, do vậy xã hội hiện đại luôn coi di sản như nhân tố để phát triển, những quyết sách về bảo tồn, phát huy di sản là một phần cốt lõi trong các chính sách liên kết xã hội, môi trường, văn hóa, giáo dục… cùng với đó là hệ thống chính sách mới đã thay đổi ý thức của công dân một cách sâu sắc về trách nhiệm của họ đối với bảo vệ di sản, tài sản chung của quốc gia.
Thứ hai, thể chế chính sách pháp luật là yếu tố rất quan trọng để bảo tồn, phát huy di sản văn hóa ở Ba Lan, đánh dấu bởi Luật Bảo vệ tài sản văn hóa được Nghị viện Ba Lan thông qua năm 1962, cùng với đó, Ba Lan đã ký Hiệp định bảo vệ di sản kiến trúc châu Âu năm 1992, được thông qua năm 1996. Điều khoản quan trọng nhất của việc bảo tồn là bổ sung luật mới về công trình lịch sử được thông qua năm 2003, các chính sách này có 3 yếu tố thiết yếu và mới đối với vấn đề bảo vệ các công trình lịch sử là bình đẳng, kinh tế thị trường và hợp tác châu Âu.
Thứ ba, tổ chức bộ máy và nhân sự thực hiện công cuộc bảo tồn di sản văn hóa góp phần quan trọng để đưa chính sách pháp luật về di sản vào thực tiễn, hồi sinh di sản kiến trúc ở Warsaw. Qua nhiều cuộc cải tổ, Bộ Văn hóa vẫn là cơ quan chịu trách nhiệm chính đối với việc bảo vệ tài sản văn hóa của quốc gia, theo đó trực tiếp phụ trách công việc này có một tổng thanh tra về các công trình lịch sử (có quyền tương đương thứ trưởng) và thành lập 2 ban chuyên giải quyết các vấn đề về di sản văn hóa là Ban bảo vệ các công trình lịch sử và Ban di sản quốc gia. Bên cạnh đó các đơn vị chuyên trách thực hiện công tác bảo tồn di sản cũng được Bộ Văn hóa thành lập như Trung tâm xác nhận và nghiên cứu các công trình lịch sử quản lý việc đăng ký các tài sản văn hóa, Trung tâm bảo vệ bộ sưu tập nghệ thuật có nhiệm vụ giúp các bảo tàng, thư viện và các cơ quan lưu trữ văn thư bảo vệ các tài sản văn hóa khỏi trộm cắp và hỏa hoạn, Trung tâm bảo tồn di sản khảo cổ học thực hiện việc áp dụng pháp luật về bảo tồn di sản, cố vấn các chương trình dự án có tác động, ảnh hưởng đến di sản khảo cổ trong quá trình dựng… tập hợp tài liệu và thực hiện việc bảo vệ các địa điểm có di sản khảo cổ. Đặc biệt tại Ba Lan bên cạnh các cơ quan quản lý về văn hóa của cấp quốc gia và địa phương còn có các tổ chức hội chuyên nghiệp trong bảo tồn di sản: ICOMS (Hội đồng di tích và thắng cảnh quốc tế) – Ủy ban Quốc gia Ba Lan, Hội Bảo tồn di tích, Hội Nghệ thuật lịch sử – Ủy Ban Bảo vệ các công trình lịch sử, Hội khoa học các nhà khảo cổ học Ba Lan – Ủy ban Bảo vệ các công trình kỷ niệm, Hội Khoa học Ba Lan – Ủy ban Công trình kiến trúc và quy hoạch thành phố, cùng với đó là đội ngũ các nhóm, người tự nguyện bảo vệ các công trình lịch sử.


Như đã đề cập phần trên, thành quả và phương thức phục dựng, hồi sinh các di sản văn hóa, công trình kiến trúc ở Warsaw rất đặc biệt, xứng đáng là những bài học cho công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị di sản của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Với cả một khu vực trung tâm khu phố cổ rộng lớn, Warsaw xuyên suốt chiều dài lịch sử hơn 600 năm bị phá hủy (có nơi bị tàn phá 85% công trình kiến trúc), việc lựa chọn công trình (như nhà thờ, cung điện, nhà dân…), phong cách kiến trúc (như Gothic, Romanesque, Tân cổ điển…) để phục dựng mang tính đại diện, trong đó phần nào để lại các vết tích cũ, công trình nào xây mới, vật liệu, màu sắc, chi tiết… đều được các chuyên gia nghiên cứu kỹ lưỡng cẩn trọng, khoa học. Một phần quan trọng nữa là từ các cứ liệu lịch sử, tranh vẽ, ảnh chụp, nghiên cứu khảo cổ, các chuyên gia đã áp dụng một các triệt để những nguyên tắc cơ bản của phục dựng, trùng tu các di sản kiến trúc để phân định, minh bạch giữa cũ mới, phần nguyên gốc, phần phục dựng, kèm theo các tranh vẽ, ảnh chụp, mô hình thu nhỏ bằng đồng 3D khung cảnh khu vực công trình trước khi bị tàn phá để người xem đối chiếu, so sánh, hình dung, tưởng tượng.
Tư liệu hóa, hệ thống thông tin dữ liệu là nguồn đầu vào vô cùng quan trọng để thực hiện việc phục dựng, bảo tồn, trùng tu di sản văn hóa, các công trình kiến trúc tại Ba Lan nói chung và cụ thể tại Warsaw, các cơ quan văn hóa như bảo tàng, thư viện, trung tâm nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ thu thập, xử lý các dữ liệu liên quan đến di sản văn hóa, lập cơ sở dữ liệu, tùy cấp độ di sản và vấn đề bản quyền các thông tin về di sản sẽ được xác lập, lưu trữ và khai thác phù hợp. Có nhiều nhà xuất bản ở Ba Lan, Văn phòng cố vấn các công trình lịch sử xuất bản các cuốn sách từ danh mục các công trình lịch sử, từ điển đến cẩm nang chuyên sâu về bảo tồn, phục dựng các di sản văn hóa, công trình kiến trúc. Danh sách các công trình lịch sử quốc gia được lưu giữ ở Viện nghiên cứu các công trình lịch sử và những tài liệu ở Warsaw dựa trên những thông tin do các chuyên gia thẩm định công trình lịch sử cấp tỉnh cung cấp.
Nghiên cứu và chuẩn bị tài liệu minh chứng cho việc phục dựng, bảo tồn các di sản văn hóa, công trình kiến trúc là công đoạn không thể thiếu để được cấp phép trước khi tiến hành đối với các di sản trong danh mục Nhà nước Ba Lan công nhận. Đây là công việc xuất phát chủ yếu từ thanh tra các công trình lịch sử, khi xét thấy cần thiết họ yêu cầu chủ sở hữu hoặc sử dụng công trình kiến trúc tiến hành việc bảo tồn.
Hồ sơ việc phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa, công trình kiến trúc rất bài bản và chặt chẽ. Theo đó, dự án phải thuyết minh cung cấp đầy đủ các dữ liệu về công trình gắn với yếu tố lịch sử, giá trị kiến trúc, khung cảnh, tác động môi trường, cảnh quan, sự thích hợp với hiện tại, chức năng sử dụng và phù hợp kế hoạch phát triển của khu phố cổ.
Mô hình trung tâm nghiên cứu và bảo vệ di sản văn hóa khu vực chuyên lưu trữ các công trình lịch sử ở Warsaw thực hiện việc cố vấn và tư vấn cho các viện, thu thập tư liệu và giải quyết các vấn đề liên quan đến bảo tồn di sản, hỗ trợ các cơ quan trong việc phục dựng, bảo tồn các di sản văn hóa, công trình kiến trúc với vai trò tổ chức nghiên cứu tư vấn chuyên sâu về bảo tồn di sản. Những sáng kiến tự nguyện trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản cũng góp phần vào sự hồi sinh của di sản văn hóa, công trình kiến trúc ở Warsaw. Họ là những người, nhóm người do các viện, các tổ chức có ảnh hưởng đến xã hội, cơ sở đào tạo liên quan đề ra các sáng kiến nhằm nâng cao nhận thức trách nhiệm của xã hội đối với công cuộc tái thiết, hồi sinh của Warsaw theo đó các di sản văn hóa, công trình kiến trúc là các giá trị văn hóa cần được phục dựng, bảo tồn, bảo vệ cho các thế hệ mai sau và khuyến khích những sáng tạo trong việc bảo tồn các công trình tiêu biểu, có giá trị. Những hội thảo khoa học, hội nghị chuyên sâu về bảo tồn di sản được họ tổ chức thể hiện sự nỗ lực, trách nhiệm.

Đội ngũ chuyên gia về bảo tồn di sản văn hóa là nhân lực cốt lõi đóng góp vào công cuộc hồi sinh di sản văn hóa, công trình kiến trúc của Warsaw. Xuất phát từ một nhóm nhỏ các chuyên gia, yêu cầu về nhân sự công cuộc tái thiết Warsaw đặt ra việc hình thành đội ngũ, từng bước đã hình thành 3 viện nghiên cứu về các công trình lịch sử ở 3 trung tâm: Học viện Mỹ thuật ở Warsaw và Kra-kow, Đại học Torun. Từ đây đội ngũ chuyên gia đảm nhận trọng trách bảo tồn các di sản văn hóa, công trình kiến trúc, lịch sử của Ba Lan, trong đó tập trung cho Warsaw. Phương pháp bảo tồn dựa trên các nghiên cứu khoa học, ưu tiên các công trình kiến trúc, lịch sử, nghệ thuật có giá trị cao trước khi bị phá hủy, tiếp tới là các công trình còn lại sau chiến tranh. Các Viện này vừa thực hiện việc nghiên cứu vừa đào tạo các chuyên gia về bảo tồn và người bảo quản, phát huy các di sản văn hóa, công trình kiến trúc, lịch sử, nghệ thuật. Tiên phong trong cung cấp nghiên cứu và nhân lực thực hiện hồi sinh Warsaw là Học viện mỹ thuật Warsaw, khoa khôi phục và bảo tồn những công trình nghệ thuật được thành lập rất sớm từ tháng 9/1947, sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc một thời gian ngắn.
Chi phí bảo tồn di sản được nhà nước bảo đảm thực hiện và chính sách ưu đãi bảo đảm nguồn lực cho công cuộc bảo tồn. Đối với công trình kiến trúc thuộc chủ sở hữu là nhà nước thì toàn bộ các nguyên tắc chi tiêu cho việc bảo tồn, tôn tạo các công trình kiến trúc được quy định cụ thể trong Luật bảo vệ tài sản văn hóa. Đối với các công trình kiến trúc thuộc chủ sở hữu, sử dụng ngoài nhà nước thì cũng được nhà nước trang trải chi phí với điều kiện họ phải thực hiện theo yêu cầu của thanh tra các công trình lịch sử, lập hồ sơ, dự toán thực hiện công tác bảo tồn, được cấp phép và sau khi hoàn thành sẽ được nhà nước hoàn trả các chi phí theo quy định. Nguồn kinh phí thực hiện việc này từ ngân sách chính quyền khu vực, số kinh phí nhận được cũng khác nhau phụ thuộc vào chính sách bảo vệ di sản ở đó. Đặc biệt người sử dụng tài sản nhà nước là các di sản văn hóa, công trình kiến trúc thuộc danh sách các công trình kỷ niệm, công trình lịch sử quốc gia thì sẽ được chính quyền địa phương miễn thuế. Ngoài ra, ở Ba Lan có một số quỹ tài trợ dành riêng cho các hoạt động văn hóa, trong đó có bảo tồn di sản, công trình kiến trúc, như Quỹ tài trợ Leopld Kronenberg Mermorial Bank.
Giáo dục ý thức bảo vệ di sản văn hóa thực sự trở thành yếu tố đặc biệt quan trọng, không chỉ trong việc phục dựng, bảo tồn mà còn cả trong việc phát huy giá trị di sản văn hóa, công trình kiến trúc. Các bảo tàng thường tổ chức những buổi học về di sản văn hóa cho học sinh phổ thông, nuôi dưỡng ý thức về bảo tồn di sản, niềm tự hào, trân trọng và trách nhiệm với di sản văn hóa. Tiêu biểu là Lâu đài hoàng gia (Royal Castle) của Warsaw đã đặc biệt thành công trong thực hiện việc này, thời gian qua bảo tàng đã tổ chức bài học cho học sinh từ bậc tiểu học, từ năm 1996 Royal Castle đã tổ chức cuộc thi lựa chọn bộ sưu tập độc đáo về “bảo tồn di sản văn hóa” đặc biệt là các công trình kỷ niệm, lịch sử trong danh mục quốc gia, Viện di sản văn hóa quốc gia, Trung tâm giáo dục quốc gia đã tổ chức chương trình “Theo dòng lịch sử – học sinh tiếp cận di sản văn hóa” thu hút học sinh hơn 30 trường học tại Ba Lan. Ý thức về di sản văn hóa là mạch nguồn để các di sản văn hóa, công trình kiến trúc hồi sinh đã và sẽ sống để truyền lại cho muôn đời sau.
Chiến tranh đã lùi xa 70 năm, công cuộc tái thiết hồi sinh di sản văn hóa phố cổ Warsaw cũng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới 45 năm qua. Khoảng thời gian này so với lịch sử đô thị ở châu Âu và Ba Lan hàng nghìn năm và với chính thủ đô Warsaw hơn 700 tuổi thì chưa phải là nhiều, nhưng đủ để di sản văn hóa, công trình kiến trúc được phục dựng đứng trong vững đời sống đô thị, trở thành di sản muôn đời nối tiếp nguồn mạch văn hóa, đủ để các thế hệ sinh ra sau chiến tranh cảm nhận mất mát của chiến tranh, giá trị của hòa bình, đủ để chúng ta cảm nhận sự hồi sinh di sản kiến trúc từ trái tim của Warsaw. Câu chuyện từ Warsaw chắp thêm niềm tin, kinh nghiệm đối với công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị di sản kiến trúc tại Việt Nam, các đô thị Đà Lạt, Hà Nội, Huế… nếu có chính sách phù hợp, nhất là chính sách bảo tồn gắn với phát triển, cơ quan quản lý chuyên trách, công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, những người làm bảo tồn được tiến hành bài bản và sự chung tay của cả cộng đồng, cùng với nuôi dưỡng ý thức trong giáo dục thế hệ trẻ về di sản từ sớm, từ xa thì dòng chảy lịch sử, lắng đọng di sản kiến trúc qua các thời kỳ của đô thị sẽ là hiện thực sống động trong thời gian tới.
KTS. Nguyễn Thanh Sơn
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 08-2025)