Site icon DOANH NGHIỆP & THƯƠNG HIỆU

Hơn 60% sản phẩm OCOP 4 sao đã được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

Hiện đã có 62% sản phẩm OCOP 4 sao được bảo hộ nhãn hiệu.

Sản phẩm OCOP 4 sao trở lên phải có nhãn hiệu đăng ký

Chương trình OCOP là chương trình phát triển kinh tế khu vực nông thôn theo hướng phát triển nội lực và gia tăng giá trị; là giải pháp, nhiệm vụ trong triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Trọng tâm của chương trình OCOP là phát triển sản phẩm nông nghiệp, phi nông nghiệp, dịch vụ có lợi thế ở mỗi địa phương theo chuỗi giá trị, do các thành phần kinh tế tư nhân (doanh nghiệp, hộ sản xuất) và kinh tế tập thể thực hiện.

Theo đó, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, ban hành khung pháp lý và chính sách để thực hiện; định hướng quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa, dịch vụ; quản lý và giám sát tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm; hỗ trợ các khâu: Đào tạo, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, tín dụng.

Thời gian qua, bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển các sản phẩm đặc trưng của các địa phương trên cả nước, các doanh nghiệp, hợp tác xã đã tập trung đăng ký bảo hộ và quản lý hiệu quả quyền SHTT cho các sản phẩm, đặc sản của mình. Nhờ đó thương hiệu của các sản phẩm OCOP được duy trì phát triển, đồng thời tiếp cận gần với người tiêu dùng trong nước cũng như đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường quốc tế.

Ông Lê Huy Anh – Phó Cục trưởng Cục SHTT báo cáo tình hình phát triển tài sản trí tuệ tại Việt Nam – một số vấn đề cần lưu ý.

Theo ông Lê Huy Anh – Phó Cục trưởng Cục SHTT (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, năm 2023, Cục SHTT đã phối hợp với Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương và Văn phòng Điều phối nông thôn mới các địa phương đánh giá thực trạng và nhu cầu bảo hộ quyền SHTT ở trong và ngoài nước cho các sản phẩm OCOP (công văn 4080/SHTT-NĐHT ngày 11/10/2023 của Cục SHTT).

Theo báo cáo của Cục SHTT (Bộ Khoa học và Công nghệ), tính đến hết tháng 12/2023, đã có 63/63 tỉnh, thành phố đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP với kết quả như sau: Đã có 11.056 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên (tăng 2.189 sản phẩm so với tháng 12/2022), trong đó 68,9% sản phẩm 3 sao, 29,9% sản phẩm 4 sao, 42 sản phẩm 5 sao, còn lại là tiềm năng 5 sao; có 5.724 chủ thể OCOP, trong đó có 37,5% là hợp tác xã, 24,4 % là doanh nghiệp, 35,3% là cơ sở sản xuất/hộ kinh doanh, còn lại là tổ hợp tác.

“Thống kê từ 27 địa phương có công văn gửi Cục SHTT cho thấy, có 978 sản phẩm được công nhận 4 sao, trong đó trong đó có 607 (chiếm 62%) sản phẩm đã được bảo hộ quyền SHTT, các sản phẩm còn lại đều đã nộp đơn đăng ký tại Cục” – ông Lê Huy Anh cho biết.

Các sản phẩm đã được công nhận 4 sao nhưng chưa được bảo hộ quyền SHTT là các sản phẩm được công nhận từ trước năm 2023 khi Thủ tướng Chính phủ chưa ban hành Quyết định số 148/QĐ-TTg ngày 23/2/2023 về Bộ tiêu chí đánh giá, phân hạng sản phẩm Chương trình mỗi xã một sản phẩm với quy định một trong những bắt buộc đối với sản phẩm đề nghị xét, công nhận 4 sao trở lên là phải có nhãn hiệu được đăng ký.

Ông Lê Huy Anh cũng cho biết, Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), kiến nghị xây dựng tài liệu hướng dẫn đăng ký bảo hộ và quản trị nhãn hiệu tại Việt Nam cho các chủ thể OCOP và tài liệu hướng dẫn đăng ký bảo hộ và bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu cho các chủ thể OCOP tại các thị trường: Đông Bắc Á, EU, Mỹ, Australia và New Zealand, Singapore, Ấn Độ, Lào, Campuchia, Myanmar; đề xuất nhiệm vụ hỗ trợ đăng ký bảo hộ trong nước và nước ngoài cho các chủ thể OCOP có sản phẩm đạt 4, 5 sao tại thị trường nước ngoài.

Bên cạnh đó, nhiều địa phương kiến nghị hỗ trợ đăng ký bảo hộ trong nước cho 267 sản phẩm 3 sao để làm căn cứ lập hồ sơ đăng ký, xét phân hạng 4 sao cấp tỉnh; hỗ trợ đăng ký bảo hộ ở nước ngoài cho 135 sản phẩm đã được công nhận 4 và 5 sao, là các sản phẩm đã và đang được xuất khẩu ra nước ngoài, các quốc gia đề nghị đăng ký bảo hộ nhiều nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ và châu Âu.

Ông Đào Đức Huấn – Trưởng Văn phòng Chương trình mỗi xã một sản phẩm (Chương trình OCOP) báo cáo về SHTT với công tác bảo hộ, quản lý và phát triển sản phẩm OCOP

TS. Đào Đức Huấn – Trưởng phòng Quản lý OCOP và Du lịch nông thôn, Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương cho biết, Chương trình OCOP đã khẳng định sự phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp của Việt Nam. Nhiều địa phương đã ban hành chính sách riêng để hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP. Đặc biệt, chương trình đã khơi dậy được tiềm năng, thế mạnh của các địa phương về sản phẩm đặc sản, ngành nghề nông thôn.

Bên cạnh đó, các địa phương đã từng bước chuyển đổi sản xuất quy mô nhỏ sang sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị khép kín, gắn với vai trò của các hợp tác xã, doanh nghiệp… Qua thống kê, tỷ lệ chủ thể OCOP xây dựng được vùng nguyên liệu ổn định theo liên kết chuỗi giá trị sản phẩm OCOP là 34,6%.

Đồng thời, chương trình góp phần tạo thêm việc làm, thúc đẩy hướng đi về phát triển sinh kế ở những vùng đặc biệt khó khăn và các nhóm yếu thế như: đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ (tỷ lệ chủ thể OCOP mở rộng quy mô về lao động là 34,6%; tỷ lệ chủ thể OCOP là nữ giữ ổn định với khoảng 40%, tỷ lệ chủ thể là người dân tộc thiểu số khu vực khó khăn, miền núi chiếm 17,1%).

“Cùng với đó, sản phẩm OCOP đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm; có mẫu mã, bao bì đa dạng và thân thiện với môi trường, phù hợp yêu cầu của thị trường. Ước tính, tỷ lệ chủ thể OCOP gia tăng về sản lượng sau khi được công nhận OCOP là 46,0%, doanh thu bán hàng tăng bình quân là 29,7%; tỷ lệ sản phẩm OCOP có giá bán tăng lên là 50,43%, mức tăng giá bình quân là 17,5%. Đồng thời, chương trình OCOP đã giúp các chủ thể mở rộng được kênh phân phối, tham gia vào các kênh bán hàng hiện đại, tỷ lệ chủ thể tham gia vào kênh siêu thị, cửa hàng tiện lợi, thương mại điện tử chiếm 57,9%”- ông Huấn cho hay.

Bên canh đó, ông Đào Đức Huấn đã chỉ ra những khó khăn nhất định trong triển khai bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm OCOP. Trong đó, phải kể đến là nhận thức và năng lực của các chủ thể OCOP. Dường như các doanh nghiệp, hợp tác xã không quan tâm gì đến sở hữu trí tuệ, họ không hiểu nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý và sử dụng nó như thế nào. Điều này đã dẫn đến khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc thay đổi tư duy của chủ thể.

Ngoài ra, các cán bộ quản lý tham gia hội đồng đánh giá phân hạng chưa đáp ứng được hết các yêu cầu của thực tiễn. Dẫn đến dễ dàng trong chứng nhận các sản phẩm OCOP 4 sao. “Từ “dễ dãi” trong chứng nhận các sản phẩm OCOP dẫn đến chủ thể OCOP không đầu tư cho bảo hộ sở hữu trí tuệ. Thà rằng chúng ta “khó” ngay từ khâu cấp chứng nhận OCOP để thay đổi tư duy năng lực của các chủ thể thay vì vội vàng cấp chứng nhận OCOP cho các sản phẩm”- ông Huấn nhấn mạnh.

Ông Huấn cũng chỉ ra thời gian đăng ký nhãn hiệu còn dài, khó khăn cho các chủ thể trong việc nâng hạng sản phẩm OCOP. Bên cạnh đó, đại diện của Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương cũng chỉ ra việc phối hợp giữa các ngành còn nhiều vướng mắc trong hỗ trợ, tập huấn nâng cao năng lực về sở hữu trí tuệ cho chủ thể OCOP ở địa phương cũng như phát triển sản phẩm OCOP chưa được quan tâm, lồng ghép gắn với các nhiệm vụ, đề tài về hỗ trợ phát triển sở hữu trí tuệ.

Ông Huấn cũng đề nghị thời gian tới Cục Sở hữu trí tuệ sẽ đẩy nhanh hơn nữa công tác thẩm định hồ sơ đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm OCOP để các sản phẩm chủ lực thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu.

Liên quan đến vấn đề này, ông Lê Huy Anh khẳng định, Cục Sở hữu trí tuệ trong thời gian qua đã rất nỗ lực để đẩy nhanh tiến độ xử lý các đơn đề nghị bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Năm 2023, khối lượng xử lý đơn đã tăng lên hơn 10% so với năm 2022. Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch rất lớn giữa số lượng đơn đầu vào và đơn đầu ra, điều này đã dẫn đến tình trạng đơn bị chậm xử lý.

Giải pháp trước mắt được ông Lê Huy Anh đưa ra đó là tạo “luồng xanh” cho các đơn liên quan đến sản phẩm OCOP cũng như một số nhu cầu cấp bách khác của địa phương. Ông Lê Huy Anh đề nghị các địa phương có yêu cầu liên quan đến OCOP thì gửi trực tiếp đến Cục Sở hữu trí tuệ. “Chúng tôi sẽ cố gắng dành nguồn lực tạo “luồng xanh” giải quyết sớm để không ảnh hưởng đến các sản phẩm OCOP 4 sao của các địa phương”- ông Lê Huy Anh khẳng định.

Năm 2023, xử lý 3.000 vụ xâm phạm quyền SHCN

Cục SHTT đề nghị các địa phương đẩy mạnh cơ chế phối hợp liên ngành trong quản lý nhà nước về SHTT.

Theo Cục SHTT, năm 2023 các địa phương đã có nhiều nỗ lực trong công tác thực thi quyền Theo Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương (SHCN) nhằm đẩy lùi nạn hàng giả, hàng xâm phạm quyền SHCN thể hiện ở việc tăng mạnh cả số vụ xử lý và số tiền phạt.

Theo báo cáo của các địa phương, cả nước đã có có 3.049 vụ xâm phạm quyền đã được xử lý (chủ yếu là đối với nhãn hiệu) với tổng số tiền phạt là 36.735.363.000 đồng và hơn 340.000 sản phẩm bị xử lý, tăng 213% về số vụ và 204% tổng số tiền phạt so với năm 2022 (1.430 vụ với tổng số tiền phạt hơn 18 tỉ đồng).

Hoạt động hỗ trợ thực thi quyền SHTT cũng đã được Cục quan tâm, đẩy mạnh thông qua việc cung cấp 306 ý kiến chuyên môn cho các cơ quan thực thi quyền (tăng 40% so với năm 2022); tham dự 07 vụ việc đã kết thúc giải quyết tại tòa án.

Đại diện Cục SHTT cũng cho biết, trong tình hình hiện nay, khi tính hiệu quả của công tác thực thi quyền SHTT trong các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc đàm phán để ký kết đang có xu hướng đặt ra các yêu cầu ngày càng cao và khắt khe hơn, thì vấn đề cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống thực thi quyền SHTT của nước ta đang trở thành nhiệm vụ có tính cấp bách.

Để làm được điều này đòi hỏi cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tập huấn, bồi dưỡng các kiến thức chuyên môn về SHCN đối với cán bộ các cơ quan thực thi quyền SHCN, thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ, trao đổi thông tin, kinh nghiệm giữa các cơ quan thực thi quyền SHCN với nhau và với các cơ quan quản lý nhà nước về SHCN ở cả trung ương và địa phương.

Ngoài ra, Cục SHTT cũng cho hay, sẽ tổ chức rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các quy chế thẩm định đơn sở hữu công nghiệp theo hướng tối ưu hóa quy trình xử lý đơn; xây dựng và triển khai kế hoạch xử lý đơn sở hữu công nghiệp nhằm thực hiện Nghị quyết số 100/2023/QH15 của Quốc hội, hướng đến năm 2027 đưa thời gian thẩm định đơn về đúng thời hạn theo quy định của pháp luật; đồng thời tăng cường công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xác lập quyền sở hữu công nghiệp, dịch vụ công trực tuyến…

Cục SHTT cũng đề nghị các địa phương đẩy mạnh cơ chế phối hợp liên ngành trong quản lý nhà nước về SHTT; tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm quyền SHTT, đặc biệt là hành vi xâm phạm quyền SHTT trong môi trường kỹ thuật số.

Bên cạnh đó, tập trung các giải pháp thúc đẩy các hoạt động tạo ra tài sản trí tuệ; khuyến khích, phát triển các hoạt động hỗ trợ về SHTT; khai thác hiệu quả tài sản trí tuệ; tăng cường nguồn nhân lực cho hoạt động SHTT, cũng như chung tay xây dựng văn hóa SHTT.



Nguồn

Exit mobile version