Lợi thế cạnh tranh mới cho doanh nghiệp xuất khẩu
| Tính tới kết thúc vụ Hè Thu 2025, quy mô diện tích tham gia Đề án đã đạt 354.839 ha, vượt 197% so với mục tiêu đề ra – Ảnh: VGP |
“Cú hích” thương hiệu từ chứng nhận xanh và đòn bẩy tài chính quốc tế
Thông tin trên được công bố trong khuôn khổ hội thảo sơ kết do Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) phối hợp cùng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức. Trong bối cảnh thị trường lương thực toàn cầu đang chuyển dịch mạnh mẽ sang các tiêu chuẩn bền vững, hội thảo “Thúc đẩy mở rộng diện tích sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp hướng đến mục tiêu 1 triệu ha vào năm 2030” đã mang đến bức tranh đầy triển vọng cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
Theo đó, kết quả thực tiễn từ Dự án chuyển đổi chuỗi giá trị lúa gạo ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững (Dự án TRVC) đã chứng minh rằng: Chuẩn hóa quy trình và liên kết chuỗi giá trị không còn là khẩu hiệu, mà là điều kiện sinh tồn và phát triển. Đáng chú ý nhất là việc 8 doanh nghiệp tham gia Dự án TRVC đã trở thành những đơn vị đầu tiên tại Việt Nam được cấp chứng nhận “Gạo Việt xanh, phát thải thấp”.
Với khối lượng được chứng nhận lên tới hơn 70.000 tấn gạo, đây không chỉ là con số về mặt sản lượng, mà là minh chứng cho thấy hạt gạo Việt Nam đã chính thức bước sang một trang mới: Xanh hơn, sạch hơn và cạnh tranh hơn. Nhãn hiệu này tạo ra một lợi thế cạnh tranh vượt trội, giúp doanh nghiệp định vị lại thương hiệu trên bản đồ xuất khẩu, thoát khỏi cái bóng của việc cạnh tranh bằng giá rẻ để hướng tới cạnh tranh bằng “Trách nhiệm – tiêu chuẩn – liên kết chuỗi”.
Hơn thế nữa, giá trị của thương hiệu xanh còn được cụ thể hóa bằng những lợi ích tài chính nhãn tiền. Kinh nghiệm thực tế từ Công ty TNHH Angimex Kitoku – một trong những đơn vị tham gia dự án – cho thấy, việc tham gia vào quy trình sản xuất lúa phát thải thấp chính là “đòn bẩy” uy tín giúp doanh nghiệp tiếp cận được nguồn tín dụng xanh (SLL) từ Ngân hàng MUFG (Nhật Bản). Điều này mở ra một hướng đi mới về tài chính bền vững cho toàn ngành hàng lúa gạo, khi uy tín môi trường được chuyển hóa trực tiếp thành nguồn vốn ưu đãi.
Để đạt được những thành quả này, vai trò của sự liên kết là tối quan trọng. Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) nhấn mạnh quan điểm chiến lược: Muốn nông dân hưởng lợi thì doanh nghiệp phải vào cuộc, đóng vai trò hạt nhân. Thực tế qua 2 vụ lúa Hè – Thu 2024 và Đông – Xuân 2025, 10 doanh nghiệp tham gia Dự án TRVC đã mở rộng áp dụng quy trình sản xuất tiến bộ trên tổng diện tích 40.184 ha. Kết quả không chỉ là việc giảm tổng cộng 156.416 tấn CO2e, mà quan trọng hơn, tỉ suất lợi nhuận trung bình cho nông hộ đã đạt con số ấn tượng 59,06%.
Sự cam kết của doanh nghiệp còn thể hiện qua việc 100% đơn vị tham gia đã thực hành lồng ghép các chính sách đảm bảo công bằng xã hội trong nội bộ và chuỗi liên kết. Dự án TRVC cũng đang sử dụng cơ chế kéo “trao giải thưởng dựa trên kết quả” với tổng giá trị lên đến 57 tỷ đồng, tạo chất xúc tác mạnh mẽ để các doanh nghiệp tăng cường liên kết với Hợp tác xã (HTX) và nông hộ nhỏ.
Minh bạch quy trình chuẩn: Nền tảng khoa học cho thương hiệu bền vững
![]() |
| TS. Trần Thu Hà: TRVC được xem là “mô hình lõi” của Đề án 1 triệu ha, tạo ra các liên kết chuỗi điển hình, cung cấp số liệu khoa học và kết quả thực tiễn làm bằng chứng để mở rộng diện tích, kết nối với các nguồn lực cho Đề án – Ảnh: VGP |
Để thương hiệu “Gạo Việt xanh” có sức nặng trên thị trường quốc tế, nó phải được xây dựng dựa trên những số liệu khoa học minh bạch và hiệu quả kinh tế thực tế, chứ không chỉ là danh xưng. Những số liệu được ông Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch VIETRISA trình bày tại hội thảo đã khẳng định tính khả thi và hiệu quả vượt trội của Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.
Tính đến kết thúc vụ Hè – Thu 2025, quy mô diện tích tham gia Đề án đã đạt 354.839 ha, vượt tới 197% so với mục tiêu đề ra. Sự hưởng ứng nhiệt tình này đến từ chính lợi ích sát sườn mà mô hình mang lại cho người nông dân và doanh nghiệp. Cụ thể, nông dân tham gia mô hình đã giảm được chi phí sản xuất từ 1,7 đến 4,9 triệu đồng/ha so với canh tác truyền thống. Điều này tương đương với việc giảm giá thành sản xuất từ 326 đồng đến 1.052 đồng/kg lúa tươi – một con số ý nghĩa trong bối cảnh giá vật tư đầu vào thường xuyên biến động.
Sự cắt giảm chi phí này đến từ việc áp dụng triệt để các quy trình kỹ thuật chuẩn: Lượng giống gieo sạ giảm mạnh từ 50-65%, tiết kiệm khoảng 70-130 kg/ha. Lượng phân đạm trung bình giảm tới 31,3%. Số lần phun thuốc bảo vệ thực vật giảm từ 1-3 lần. Lượng nước tưới được quản lý chặt chẽ, đạt chuẩn rút nước ít nhất 2-3 lần.
Điều đáng nói là dù đầu vào giảm sâu, nhưng đầu ra lại tăng trưởng ấn tượng. Năng suất trong mô hình ghi nhận mức tăng từ 1,4-15,9 tạ/ha, tương đương mức tăng trung bình từ 3,2 đến 22,1% so với canh tác truyền thống. Đặc biệt, tại vụ Đông – Xuân, lượng giảm phát thải của mô hình đạt 3,7 tấn tCO₂e/ha/vụ. Đây là những chỉ số “biết nói”, chứng minh tiềm năng to lớn để mở rộng diện tích sản xuất lúa vừa chất lượng cao, vừa phát thải thấp.
Để đảm bảo độ tin cậy cho các chỉ số này, Dự án TRVC – được xem là “mô hình lõi” của Đề án – đã ứng dụng hệ thống công nghệ cao MRV-Tier3. Hệ thống này cho phép theo dõi thực hành nông học tới cấp ô ruộng thông qua ảnh vệ tinh và sử dụng mô hình sinh địa hóa (DNDC) để tính toán lượng phát thải. Các kết quả này được định lượng theo tiêu chuẩn được Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu công nhận, tạo nền tảng quan trọng để hình thành tín chỉ carbon cho ngành lúa gạo trong tương lai.
Trước những kết quả khả quan đó, ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã phát đi lời kêu gọi hành động thống nhất. Các địa phương như Thành phố Cần Thơ, Tỉnh Vĩnh Long và Tỉnh Cà Mau được đề xuất mở rộng vùng Dự án TRVC với sự hỗ trợ từ nhà tài trợ DFAT/Chính phủ Australia.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cam kết sẽ đồng hành chặt chẽ cùng địa phương và doanh nghiệp trên 3 trọng tâm: Phối hợp giám sát thực hiện quy trình đo đạc MRV; hỗ trợ xây dựng mô hình liên kết chuỗi; và tạo điều kiện tối đa cho ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Mục tiêu cuối cùng là tạo ra một hệ sinh thái triệu ha lúa không chỉ đạt diện tích, mà còn kiến tạo những giá trị mới, đưa hạt gạo Việt Nam vươn xa với vị thế của một cường quốc nông nghiệp xanh và trách nhiệm.

