Tổ chức không gian cảnh quan ven sông thích ứng với biến đổi khí hậu, trường hợp sông Cu Đê – Thành phố Đà Nẵng
Giới thiệu chung
Nguồn nước, luôn là lựa chọn quan trọng quyết định đến sự sống trong lịch sử phát triển của nhân loại. Thời gian gần đây, đô thị hóa tác động mạnh mẽ lên không gian cảnh quan mặt nước làm phát sinh nhiều vấn đề (ô nhiễm, lũ lụt, sạt lở…), làm giảm kết nối giữa không gian tự nhiên (nguồn nước) với không gian nhân tạo (đô thị) [1]. Khai thác không gian cảnh quan mặt nước, cụ thể là cảnh quan ven sông trở thành thách thức lớn trong công tác quy hoạch và quản lý đô thị [2].
Thành phố (TP) Đà Nẵng có hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn chảy qua và sông Cu Đê nằm hoàn toàn trong địa phận [3] [4]. Hai hệ thống sông này vừa là nguồn nước, vừa mang nhiều giá trị về sinh thái, cảnh quan và du lịch cho đô thị. Trong đó, khả năng kiểm soát nguồn nước, cảnh quan, sinh thái của lưu vực sông Cu Đê chủ động hơn đòi hỏi cần có giải pháp, mục tiêu phát triển bền vững lưu vực sông Cu Đê [5]. Sông Cu Đê là dòng sông phía Bắc TP Đà Nẵng, có chiều dài 47km, rộng trung bình từ 20m đến 700m, độ sâu trung bình từ 0,5m đến 3,5m, là hợp lưu giữa sông Nam và sông Bắc, chảy theo hướng từ Tây sang Đông. Diện tích lưu vực tính đến cửa sông là 449 km2, gồm 3 đoạn:
Giai đoạn 2002 – 2012: Các khu vực xung quanh vẫn chủ yếu là đất nông nghiệp và vùng ngập nước tự nhiên. Đến giai đoạn 2012 – 2017: Công trình xây dựng có sự gia tăng rõ rệt. Đến 2017 – 2020: Tốc độ đô thị hóa tăng mạnh, một số khu vực ngập nước bị san lấp. Và từ 2020 – 2024: Khu vực xây dựng với mật độ cao chiếm ưu thế, vùng đất ngập tự nhiên gần như bị thay thế hoàn toàn. Qua phân tích hình ảnh từ vệ tinh, tỉ lệ phần trăm đất đô thị năm 2002: 10% và lần lượt 2012: 20%, 2017: 50%, 2020: 70%, 2024: 85% đã đặt ra nhiều thách thức lớn cho công tác quản lý và tổ chức cảnh quan khu vực ven sông Cu Đê.
(i) Đoạn thượng lưu (sông Bắc): Lưu vực sông là vùng đệm của khu bảo tồn thiên nhiên Bạch Mã có chiều dài khoảng 22km với diện tích 136km2, chiều rộng lòng sông từ 30m đến 100m. Khu vực này chưa có hoạt động khai thác, sử dụng nước và xả nước thải; (ii) Đoạn trung lưu: Từ cửa sông Nam đến cầu Phò Nam khoảng 10km, chiều rộng lòng sông khoảng 100m đến 150m; (iii) Đoạn hạ lưu: Là đoạn sông bị xâm nhập mặn trong mùa kiệt, chiều dài đoạn sông khoảng 15km, chiều rộng lòng sông biến đổi trong khoảng từ 150m đến 280m.
Qua thực tế, mùa mưa do địa hình thấp dần từ trung lưu đến hạ lưu, cộng với lượng mưa lớn làm dòng chảy dồn về cửa Nam Ô gây nguy cơ ngập lụt (năm 2020 lũ lụt gây thiệt hại tài sản, hạ tầng lên tới hàng chục tỷ đồng). Vào mùa khô, nước mặn xâm nhập làm nồng độ muối tại cửa Nam Ô vượt mức 10 ppt (năm 2019), gây hại cho nông nghiệp và giảm chất lượng nước sinh hoạt.
Nghiên cứu sông Cu Đê để giải quyết và hạn chế tác hại của lũ lụt khi gặp thời tiết cực đoan, khai thác các không gian cảnh quan ven sông Cu Đê để nâng cao chất lượng cuộc sống và định hướng khai thác các điều kiện tự nhiên thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ đa dạng sinh học nhằm nâng cao chất lượng môi trường và cuộc sống người dân trong thời gian đến là cần thiết. Với những lý do đó, bài báo mong muốn đưa ra những giải pháp cụ thể về tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan ven sông theo hướng sinh thái, thích ứng với những hiện tượng thời tiết cực đoan, trên nguyên tắc tôn trọng những đặc tính tự nhiên của dòng sông.
Thực trạng sông Cu Đê
TP Đà Nẵng có nhiệt độ trung bình năm khoảng 25-27°C với lượng mưa dao động từ 2,000-2,500mm tập trung chủ yếu vào mùa mưa (tháng 9-12). Trong khi mùa khô (tháng 1-8) dòng chảy sông giảm mạnh, thường xảy ra hiện tượng xâm nhập mặn ở hạ lưu.
Thượng lưu (sông Bắc) chiếm diện tích khoảng 30% lưu vực với địa hình chủ yếu là đất rừng tự nhiên trong vùng đệm của khu bảo tồn thiên nhiên Bạch Mã; Trung lưu (Hòa Bắc, Hòa Liên) chiếm khoảng 40% chủ yếu là đất canh tác nông nghiệp, khu dân cư và các khu công nghiệp nhỏ khai thác đá, vật liệu xây dựng và Hạ lưu (Hòa Hiệp Bắc và Nam Ô) chiếm 30% lưu vực, có tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ làm suy giảm vùng đất ngập nước tự nhiên, ảnh hưởng đến khả năng điều tiết dòng chảy và gây nguy cơ ngập lụt.
Việc nâng cote nền xây dựng (không gian dự trữ nước bị thu hẹp, cản trở dòng chảy, giảm thấm hút tự nhiên…) ở các khu vực ven sông là một trong những nguyên nhân khiến mức độ thiệt hại do lũ lụt gia tăng [6] [7].
Thực trạng lưu vực Sông Cu đê, cần có các nghiên cứu đánh giá và đề xuất chiến lược phát triển đô thị kết hợp với tổ chức không gian cảnh quan đảm bảo hướng đến mục tiêu phát triển vền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của TP Đà Nẵng. Trong đó, cần chú trọng khai thác các cơ sở lý luận về phát triển không gian cảnh quan và các bài học kinh nghiệm trong nước cũng như quốc tế. Từ đó, đề xuất các giải pháp phù hợp với thích ứng biến đổi khí hậu và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực lên kinh tế, xã hội và môi trường.
Cơ sở lý luận và các nghiên cứu
Cảnh quan sinh thái ven sông là không gian tự nhiên và nhân tạo dọc hai bên bờ sông – Là nơi giao thoa giữa các hệ sinh thái đất liền và nước, giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì cân bằng môi trường [8], [9], điều tiết nước và giảm ngập lụt, cung cấp dịch vụ hệ sinh thái [10] tạo lập không gian công cộng chất lượng cao [11] và góp phần xây dựng hình ảnh thương hiệu đô thị [12]… hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội bền vững [13]. Trên thế giới, việc khai thác cảnh quan được thực hiện từ lâu và đạt được nhiều kết quả quan trọng:
Hành lang thoát lũ là không gian ven sông (lòng sông, bãi bồi, vùng đất ngập nước, hành lang tự nhiên) được quy hoạch và dành riêng cho việc điều tiết, tích trữ, thoát nước lũ. “Hành lang” này hạn chế các tác động xấu như ngập úng kéo dài, xói mòn bờ sông, và tổn thất về người, tài sản khi xảy ra mưa lớn hoặc lũ lụt [10], bảo vệ hệ sinh thái ven sông và hỗ trợ các dịch vụ [11]. Chính phủ Việt Nam ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác bảo vệ, quản lý hành lang thoát lũ . Nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận thức rõ vai trò của hành lang thoát lũ và đưa việc bảo vệ, quy hoạch những hành lang này vào chính sách quản lý nguồn nước, quy hoạch đô thị và thích ứng biến đổi khí hậu.
TP bọt biển là mô hình quy hoạch và phát triển đô thị ứng dụng các giải pháp hạ tầng xanh và cận tự nhiên nhằm tăng cường khả năng hấp thu, dự trữ, thẩm thấu và làm chậm dòng chảy nước mưa, nước lũ. TP bọt biển hướng đến phân tán và giữ nước tại chỗ, tận dụng thảm thực vật, mặt đất thấm, vùng ngập nước, và không gian xanh – xám tích hợp [14], [15] giúp giải quyết những vấn đề của đô thị như: Quản lý nước mưa và ngập lụt đô thị [16], nâng cao và bảo tồn chất lượng nước, môi trường sống [14]; thích ứng biến đổi khí hậu [15] và phát triển bền vững và kinh tế – xã hội [16]. Giải pháp TP bọt biển linh hoạt, dễ dàng tích hợp vào quy hoạch ven sông, cho phép điều chỉnh theo thời gian, thích ứng với biến đổi khí hậu, và đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị bền vững [16].
Tổ chức không gian cảnh quan là quá trình quy hoạch, sắp xếp, liên kết và định hướng phát triển các yếu tố tự nhiên (đất, nước, thảm thực vật, địa hình) và nhân tạo (công trình kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật, không gian công cộng) nhằm tạo ra một môi trường sống hài hòa, bền vững và thẩm mỹ. Các lý thuyết chính được thế giới áp dụng cho công tác quy hoạch, tổ chức không gian cảnh quan gồm Lý thuyết Cảnh quan sinh thái: Phân tích cấu trúc, chức năng và động thái để định hướng quy hoạch đảm bảo duy trì và cải thiện tính bền vững sinh thái [17]. Lý thuyết về hạ tầng xanh và giải pháp dựa vào tự nhiên: Đề cao không gian tự nhiên trong giảm thiểu rủi ro thiên tai, bảo tồn đa dạng sinh học, cải thiện vi khí hậu và nâng cao chất lượng sống [18] [19] và Thiết kế đô thị bền vững: Hướng đến giảm phát thải khí nhà kính, sử dụng hiệu quả tài nguyên và thích ứng với biến đổi khí hậu [11]. Các lý luận này hướng đến tổ chức không gian đô thị tăng khả năng thấm và trữ nước [15], giảm hiệu ứng đảo nhiệt đô thị [20] và bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái.
Trên thế giới, năm khu vực ngập nước được tổ chức khai thác hiệu quả gồm: Khu đầm lầy được bảo tồn nguyên trạng và quản lý nước, kiểm soát sinh vật ngoại lai làm nâng cao giá trị du lịch và giảm thiểu lũ lụt ở Everglades, Florida, Mỹ; Khu đầm lầy nội địa với các đảo và các bãi cỏ ngập được xây dựng khu du lịch safari để bảo tồn động thực vật quý hiếm tạo nguồn thu du lịch bền vững, bảo vệ hệ sinh thái ở Okavango Delta, Botswana; Vùng đầm lầy cửa sông Rhône kết hợp với hoạt động nông nghiệp trồng lúa, bảo tồn cảnh quan văn hóa ở Camargue, Pháp; hay rừng ngập mặn lớn nhất thế giới được quan tâm bảo vệ giảm tác động bão, làm tăng giá trị sinh thái và phát triển hoạt động du lịch ở Sundarbans, Bangladesh – Ấn Độ; phân nhánh với vùng ngập nước rộng thành khu bảo tồn thiên nhiên cho chim di trú ở Khu ngập nước Danube Delta, Romania – Ukraine… có thể thấy công tác bảo tồn và khôi phục các hệ sinh thái ngập nước thuộc lưu vực Sông Cu Đê là giải pháp quan trọng để giảm thiểu lũ lụt, xói mòn gắn với phát triển du lịch sinh thái, nông nghiệp bền vững, tạo sinh kế cho người dân.
Qua các cơ sở lý luận và bài học kinh nghiệm, việc tổ chức cảnh quan ven sông đòi hỏi duy trì, phục hồi và phát huy các chức năng sinh thái tự nhiên (điều tiết nước, bảo tồn đa dạng sinh học), đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa, du lịch và nâng cao chất lượng sống cho cư dân đô thị, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển đô thị bền vững, giàu bản sắc [8], [10]. Do đó, cần tập trung giải quyết các vấn đề ưu tiên gồm: (i) Bảo tồn và phục hồi môi trường sinh thái ven sông; (ii) tổ chức hành lang thoát lũ và thảm thực vật bản địa nhằm giảm thiểu rủi ro lũ lụt và thích ứng với biến đổi khí hậu, (iii) tạo lập không gian công cộng chất lượng cao ven sông, thúc đẩy hoạt động du lịch, văn hóa, giải trí và (iv) phát triển kinh tế – xã hội. Chính quyền TP Đà Nẵng đã khẳng định vai trò không gian xanh ven sông trong cấu trúc đô thị, bảo tồn đa dạng sinh học, cải thiện môi trường để phát triển Đà Nẵng trở thành đô thị sinh thái, hiện đại, thông minh.
Sông Cu Đê nằm hoàn toàn trong địa giới hành chính của Đà Nẵng, là một trong những lưu vực sông quan trọng của TP với vai trò cung cấp nguồn nước, giảm áp lực lũ lụt lên trung tâm TP và tổ chức, khai thác cảnh quan sinh thái và du lịch. Với đặc điểm áp lực gây lũ vào mùa mưa, xâm thực mặn vào mùa khô lặp đi lặp lại hằng năm, đòi hỏi phải có chiến lược ưu tiên giữ lại hành lang thoát lũ, bảo tồn các vùng sinh thái quan trọng, tăng cường mảng xanh, hạn chế xây dựng công trình kiên cố lấn chiếm lòng và bờ sông Cu Đê.
Bài học kinh nghiệm trong nước và thế giới
Công tác quy hoạch được các quốc gia chú trọng giảm thiểu các rủi ro thiên tai bằng các giải pháp tái tạo lại không gian tự nhiên, dựa vào tự nhiên và quy hoạch “linh hoạt” không gian công cộng, sinh thái… [15]. Các quốc gia như Hà Lan với bài học chấp nhận “sống chung với nước” thay vì “chống lại nước hoàn toàn” nhằm giải phóng không gian ven sông, tạo vùng ngập tự nhiên, di dời đê, kết hợp cảnh quan xanh để giảm rủi ro lũ lụt; Porland, Mỹ với bài học khai thác hạ tầng xanh giảm ngập và cải thiện chất lượng nước, nâng cao chất lượng sống của người dân bằng việc khôi phục hệ sinh thái ven sông Willamette, tạo vườn mưa, công viên ngập, bề mặt thấm, kết hợp quy hoạch xanh – xám hay Singapore với bài học: Tối ưu không gian đô thị vừa đảm bảo chức năng thoát nước, vừa nâng cao trải nghiệm sống và du lịch qua việc thực hiện mô hình “City in a Garden”, chỉnh trang kênh sông tự nhiên hóa đã cho thấy tính hiệu quả của các mô hình và bài học kinh nghiệm này cần áp dụng cho trường hợp cụ thể từng khu vực của sông Cu Đê.
Tại Việt Nam, các đô thị ven sông đã bắt đầu chú trọng kết hợp giải pháp quy hoạch mềm, bảo tồn vùng ngập lũ, phát triển công viên ven sông, khôi phục thảm thực vật bản địa, tăng cường dự báo, cảnh báo sớm và quản lý tổng hợp lưu vực. Hội An: Có các giải pháp tôn trọng chu kỳ tự nhiên của sông, hạn chế bê tông hóa, kết hợp du lịch sông nước với không gian công cộng ven sông, duy trì các vùng ngập tự nhiên, giúp giảm thiệt hại khi lũ lụt. Cần Thơ: Khai thác hạ tầng xanh hỗ trợ thích ứng biến đổi khí hậu với cây xanh và đường đi bộ ven sông kết hợp cải tạo hệ thống kênh nội đồng làm giảm ngập. Thừa Thiên Huế: Khai thác di sản văn hóa – cảnh quan – thích ứng lũ lụt bằng cách chú trọng bảo tồn cảnh quan, không gian văn hóa, kết nối đường đi bộ, công viên ven sông Hương làm giảm áp lực lên hệ thống thoát nước.
Quá trình phát triển đô thị TP Đà Nẵng, người dân được thụ hưởng và đồng lòng xây dựng và mong muốn các vấn đề về ngập lụt được giải quyết triệt để, hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực của thiên nhiên bằng các giải pháp tạo nhiều không gian xanh, công viên ven sông và các hoạt động phát triển kinh tế xã hội. Trong thời gian đến, các hoạt động quản lý, quy hoạch lưu vực sông Cu Đê cần tiếp cận thiết kế quy hoạch, cảnh quan, kiến trúc, và cơ sở hạ tầng đô thị dựa trên việc tôn trọng vòng tuần hoàn tự nhiên của nước, tăng cường khả năng thấm, trữ nước, xử lý nước mưa tại chỗ, giảm áp lực lên hệ thống thoát nước thông qua việc kết hợp thảm thực vật, mặt thấm, vườn mưa, hồ sinh thái, hạn chế bề mặt cứng, hướng đến phân tán dòng chảy, giảm tốc độ dòng chảy và không xem nước là vấn đề mà là tài nguyên, cơ hội tạo cảnh quan, sinh thái, kinh tế.
Kết luận
TP Đà Nẵng sở hữu một hệ thống sông ngòi phong phú, bao gồm sông Cu Đê với lưu vực rộng lớn và phức tạp. Khai thác và quản lý lưu vực sông không chỉ khắc phục được các tác động tiêu cực đến đô thị mà còn xây dựng cảnh quan đô thị, tạo nên vẻ đẹp tự nhiên và thu hút khách du lịch, phát triển kinh tế xã hội. Bài báo chỉ ra các bài học kinh nghiệm và đề xuất đánh giá hệ thống sông Cu Đê để cung cấp cái nhìn tổng quan và vai trò trong việc cung cấp nguồn nước, điều tiết lũ lụt và phát triển cảnh quan đô thị.
Để đảm bảo hiệu quả trong việc tổ chức cảnh quan ven sông thích ứng với lũ lụt và biến đổi khí hậu, các bước tiếp theo cần thực hiện bao gồm: Thực hiện quy hoạch tích hợp và toàn diện; tăng cường hạ tầng xanh và các giải pháp tự nhiên; nâng cao nhận thức và tham gia của cộng đồng và ứng dụng công nghệ tiên tiến với các mô hình được giới thiệu; tích hợp không gian công cộng, du lịch sinh thái… để quản lý nguồn nước hiệu quả, nâng cao khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thực hiện tốt các giải pháp trên, hệ thống sông ngòi ở Đà Nẵng trở thành tài sản quý giá giúp cải thiện chất lượng sống, hỗ trợ hoạt động kinh tế và góp phần duy trì văn hóa và bản sắc địa phương, tạo dấu ấn văn hóa của đô thị TP Đà Nẵng trong tương lai.
KTS Phan Thị Khánh Hòa
KTS Hồ Lê Quốc Vũ – TS. KTS Phan Bảo An
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 06-2025)
Tài liệu tham khảo
[1] Diyun L., “Waterfront Landscapes and Urban Revitalization.,” Urban Planning Press., 2009.
[2] Sairinen R., “Waterfront Planning: Global Perspectives.,” Springer, 2006.
[3] UBND TP. Đà Nẵng, “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội TP Đà Nẵng đến năm 2030” – UBND TP Đà Nẵng, 2018.
[4] Trần T. H: “Quy hoạch quản lý nguồn nước sông Vu Gia – Thu Bồn và tác động đến Đà Nẵng” – Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 2019.
[5] Nguyễn V. A: “Nghiên cứu giải pháp quản lý tổng hợp lưu vực sông Cu Đê.,” 2020.
[6] UBND Đà Nẵng: “Quy hoạch hợp lý để ứng phó lũ lụt” Báo Đà Nẵng điện tử., 2016.
[7] Trần T. H: “Tác động của quy hoạch đô thị đến khả năng điều tiết lũ trên hệ thống sông vùng ven biển miền Trung.,” Tạp chí Khoa học ĐHQGHN., 2019.
[8] Forman R. T. T. Godron M: “Landscape Ecology.,” Wiley., 1986.
[9] Wiens J. A. Moss M. R. Turner M. G: “Foundation Papers in Landscape Ecology.,” Columbia University Press., 2013.
[10] Naiman, R. J. and Decamps, H: “The ecology of interfaces: riparian zones,” Annual review of Ecology and Systematics, pp. 621-658, 1997.
[11] Gehl J., “Life Between Buildings: Using Public Space.,” Island Press., 2011.
[12] Treib M: “Urban Landscape, Redevelopment, and Recreated Nature. In Modern Landscape Architecture: A Critical Review” MIT Press., 1995.
[13] R. a. S. K. Sairinen, “Assessing Social Impacts in Urban Waterfront Regeneration,” vol. 26 (1): 120–35, p. 26 (1): 120–35, 2006.
[14] Liu Y. Li J: “Sponge City Concept Helps to Build Water-Sensitive Cities in China.,” 2016, Environmental Earth Sciences, 75(9), 1–3..
[15] Fletcher T. D. et all, “SUDS, LID, BMPs, WSUD and more – The evolution and application of terminology surrounding urban drainage” Urban Water Journal, 12(7), 525–542., 2015.
[16] M. C. J. L. H. L. Y. Qiao, “Planning Sponge City as a Green Infrastructure Strategy for Urban Sustainability: A Spatial Multi-Criteria Decision Analysis of Shenzhen, China.,” Journal of Cleaner Production, 255, 120220., 2020.
[17] Forman R. T. T., “Land Mosaics: The Ecology of Landscapes and Regions.,” Cambridge University Press., 1995.
[18] Benedict M. A. McMahon E. T., “Green Infrastructure: Linking Landscapes and Communities.,” Island Press., 2006.
[19] E. Commission., “Towards an EU Research and Innovation Policy Agenda for Nature-based Solutions & Re-naturing Cities.,” European Commission., 2015.
[20] Gill S. E. et al, “Adapting cities for climate change: The role of green infrastructure.,” Built Environment, 33(1), 115–133., 2007.
[21] “Introduction to WSUD,” 2015. [Online]. Available: https://www.melbournewater.com.au/building-and-works/stormwater-management/introduction-wsud.
[22] “Đà Nẵng: Quy hoạch hợp lý để ứng phó lũ lụt,” 22 12 2016. [Online]. Available: https://baotainguyenmoitruong.vn/da-nang-quy-hoach-hop-ly-de-ung-pho-lu-lut-246412.html.
[23] H. Diyun, “Urban waterfront landscape planning,” 2009.