Thương Hiệu

Về đền Tranh “cầu gì được nấy”

Nơi lưu giữ giá trị văn hóa tín ngưỡng

Lễ hội đền Tranh tại Xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, Hải Dương.

Nhiều đời nay, câu chuyện về sự linh ứng của đền Tranh còn gọi là đền Quan lớn Tuần Tranh (có địa chỉ tại thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm cũ – nay thuộc thị trấn Ninh Giang) luôn được người dân cùng du khách thập phương nhắc đến truyền tai nhau. Tuy nhiên, ít ai biết được những giá trị mà Lễ hội đền Tranh mang lại trong đời sống tín ngưỡng, văn hóa, tinh thần của nhân dân địa phương cùng du khách gần xa.

Ông Nguyễn Thành Vạn – Phó chủ tịch UBND huyện Ninh Giang, Trưởng ban tổ chức lễ hội cho biết: “Lễ hội năm nay chúng tôi dự đoán lượng du khách về đền Tranh sẽ đông hơn mọi năm. Bởi năm nay là năm Ất Tỵ mà sự tích Quan lớn Tuần Tranh liên quan đến thờ thần rắn. Vì vậy, ngay đầu năm mới, lượng khách đổ về đền rất đông, trong khi đó ban tổ chức sẽ tổ chức khai hội đúng vào ngày Chủ nhật (9/3/2025, tức mồng 10 tháng Hai năm Ất Tỵ) nên du khách sẽ tăng đột biến so với lễ hội mọi năm…”.

Lễ hội đền Tranh là điểm du lịch đã được UBND tỉnh Hải Dương công nhân năm 2023. Trải qua các năm, lễ hội lại được bồi đắp thêm giá trị văn hóa. Đây cũng là năm thứ 3, Lễ hội đền Tranh được UBND huyện đứng ra tổ chức, với quy mô lớn hơn… Từ đó, vị thế di tích đền Tranh được nâng cao và để lại nhiều ấn tượng đẹp trong lòng du khách thập phương, người dân.

“Về văn hóa, Lễ hội đền Tranh là hoạt động nổi bật nhất trong một năm về việc bảo tồn, phát huy giá trị của di tích và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Đó là phần nghi lễ để kính lễ đối với Quan lớn Tuần Tranh, thể hiện ước nguyện của người dân bao đời nay về cuộc sống no đủ, hạnh phúc và công việc hanh thông. Từ sự kính lễ ngưỡng mộ ấy, các hoạt động của phần hội được diễn ra trong lễ hội góp phần nâng cao chất lượng đời sống văn hóa ở cơ sở. Bên cạnh đó, cũng nhiều du khách cho rằng, đến với đền thờ Quan lớn Tuần Tranh là sự may mắn của bản thân, đặc biệt đến vào dịp lễ hội mùa xuân.”, ông Vạn giải thích.

Theo đại diện ban tổ chức lễ hội, cùng với những giá trị văn văn hóa, Lễ hội đền Tranh còn mang lại giá trị kinh tế lớn. Bởi khi tổ chức lễ hội, các dịch vụ như: ăn, nghỉ, giới thiệu quảng bá sản phẩm quê hương Ninh Giang sẽ được ban tổ chức tích hợp vào trong chương trình. Trong 3 năm nay, Lễ hội đền Tranh có thêm trưng bày sản phẩm OCOP của các địa phương trong huyện (đề án mỗi xã một sản phẩm của Chính phủ). Năm nay, ban tổ chức lễ hội có thể sẽ mời một một số huyện bạn lân cận trong việc giao thương sản phẩm hàng hóa của các địa phương, vùng miền

Trải qua nhiều năm, Lễ hội đền Tranh càng thu hút đông du khách hơn và quy mô tổ chức chặt chẽ và phần Hội được quan tâm hơn. Cho nên người dân và du khách về dự lễ hội cần thực hiện tốt về quy tắc ứng xử văn hóa nơi công cộng. Chọn trang phục phù hợp với lễ hội và truyền thống văn hóa dân tộc; nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường; ăn nói văn minh cũng như ủng hộ, tham gia tích cực những nội dung về phần hội do ban tổ chức đưa ra.

Theo chính quyền địa phương, huyện Ninh Giang duy nhất chỉ có 1 di tích lịch sử văn hóa Quốc gia thờ Quan lớn Tuần Tranh – đó là đền Tranh (xã Đồng Tâm cũ- nay là thị trấn Ninh Giang). Tuy nhiên, trên địa bàn huyện cũng có 2 ngôi đền ở bờ sông (khu 2, thị trấn Ninh Giang) về gốc tích không thờ Quan lớn Tuần Tranh và đây là đền do tư nhân dựng lên khiến nhiều người, du khách nhầm tưởng…

“Khi du khách về dự Lễ hội đền Tranh cần nhớ về đúng địa chỉ của đền Tranh – Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia ở khu dân cư Tranh Xuyên (thị trấn Ninh Giang)hiện nay. Tôi mong rằng, mỗi du khách sẽ là sợi dây kết nối, quảng bá, giới thiệu về di tích này, về đúng địa chỉ của đền Tranh tránh bị nhầm lẫn…’, Trưởng ban tổ chức lễ hội nói.

Câu chuyện về đền Tranh “cầu gì được nấy”

Về đền Tranh
Trong dân gian vẫn truyền tụng là “đền thiêng lắm, linh ứng lắm, cầu gì được nấy”.

Trong dân gian vẫn truyền tụng là “đền thiêng lắm, linh ứng lắm, cầu gì được nấy” nên kỳ hội mở hàng năm, du khách trong nước và nước ngoài về trẩy hội rất đông. Ngoài hai lễ hội chính, vào tháng 5 Âm lịch còn có một ngày đông du khách thập phương về với đền nhất là ngày “Tiệc quan tháng 5”. Tiệc này trong truyền thuyết là ngày Quan Lớn khao tiệc. Ngoài ra nhắc đến Quan Lớn Tuần Tranh là du khách nhắc đến hoạt động Hát xướng Hầu thánh với 36 giá Hầu thánh cùng 36 bài hát.

Vào năm 2009, đền Tranh vinh dự được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Để thu hút được đông đảo du khách về thăm quan, chiêm bái tại đền Tranh, những năm gần đây, huyện Ninh Giang luôn chú trọng trong công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa của đền Tranh cũng như các lễ hội. Qua đó, những nét đẹp truyền thống của vùng đất Ninh Giang và tỉnh Hải Dương đã được quảng bá đến với du khách trong nước và quốc tế.

Cho đến nay chưa có tài liệu chính xác nào về thời gian xây dựng đền Tranh. Nhưng theo dân gian, đền Tranh vốn được xây dựng trên nên một ngôi miếu cổ có từ thời Hùng Vương. Miếu có tên gọi là Tranh Giang Đại Vương cổ miếu, nằm ở bến sông Tranh, sát thị trấn Ninh Giang. Các cụ cao niên kể rằng, Đền được xây dựng trên khu đất cao, đẹp, có nhiều cây cổ thụ xum xuê và đặc biệt Đền rất linh thiêng về cầu đảo khi đi sông nước. Thời Nguyễn ở thế kỷ XIX, đền được xây dựng hoành tráng, chạm trổ cầu kỳ, tinh xảo, có tượng Quan Lớn Tuần Tranh.

Năm 1887, Pháp chiếm Hải Dương và Ninh Giang, chúng đã cho đóng quân ở thành Đô Giang (thị trấn Ninh Giang) và sử dụng đền Tranh làm điểm đóng quân. Tuy nhiên chúng cũng không dám phá Đền vì nghe danh Đền rất linh thiêng. Sau này, người dân đã góp công sức tiền của cho xây dựng một đền Tranh mới ở giữa phố của thị trấn Ninh Giang với tổng số 127 gian trên khu đất rộng 4 mẫu bắc bộ. Nhưng đến năm 1946, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, đền bị phá chỉ còn 3 gian cung cấm.

Năm 1966, thể theo nguyện vọng của nhân dân thôn Tranh Xuyên, đền được chuyển về vị trí như ngày nay. Ban đầu chỉ chuyển 3 gian cung cấm về. Tại đây, đền từng bước được tu bổ, khôi phục lại các hạng mục. Với ý thức giữ gìn di sản văn hóa của dân tộc, đền Tranh đã được nhân dân trùng tu lớn. Đền quay hướng Tây Nam, nhìn lên đường lớn.

Đền được xây gồm 3 tòa: tiền đường, trung từ và hậu cung. Mỗi công trình gồm 7 gian, tổng số là 21 gian. Kiến trúc phỏng theo thời Lê và thời Nguyễn. Đặc biệt, đền còn bảo lưu được một số cổ vật có giá trị nghệ thuật như tượng Quan Lớn Tuần Tranh bằng đồng nặng 200 kg, 4 pho tượng Tứ Trụ bằng đá, bát hương, đỉnh đồng, hạc đồng, cuốn thư, chóe sứ…

Nhiều huyền tích về đền Tranh

Về đền Tranh
Hiện đền Tranh có nhiều con rắn được trang trí bám theo xà ngang.

Đền Tranh cổ kính tự bao đời là hiện diện cho nét tín ngưỡng, văn hoá của người dân Ninh Giang. Trong hàng nghìn ngôi đền ở xứ Đông, kiến trúc đền Tranh độc đáo và khác biệt với những con rắn bằng vải nhồi bông bắt mắt ở xung quanh xà ngang và mái đền. Thần rắn minh chứng cho niềm tin, lòng thành kính của người dân đối với huyền tích về rắn thần đền Tranh.

Theo chuyện xưa kể lại, vào thời Vua Hùng thứ 18, ở làng Lạc Dục (Tứ Kỳ) có đôi vợ chồng hiền lành, đức độ, tuổi cao mà chưa có con. Ngày nọ, người chồng làm vườn nhặt được 2 quả trứng nhỏ. Nghĩ là trứng chim nên ông mang về nhà, chờ ngày chim nở, ngờ đâu lại nở ra rắn. Người vợ sợ hãi, định đem đi giết thì người chồng can ngăn, cho là điềm trời nên giữ lại nuôi.

Quả nhiên, hai con rắn càng lớn càng quấn quýt bên ông bà và được đôi vợ chồng yêu thương, chiều chuộng như con. Có lần, khi hai con rắn đang đùa nghịch, người chồng làm vườn chẳng may cuốc đứt đuôi một con. Vì thế, họ đặt tên cho chúng là Dài và Cộc. Hai con rắn ăn rất khoẻ mà lại chỉ thích ăn gà nên người chồng phải đi ăn trộm gà của hàng xóm về cho rắn ăn. Sợ mang tội với xóm làng lại không còn sức lực để nuôi, ông bà bàn tính rồi mang hai con rắn ra ngã ba sông thả. Từ khi được thả xuống sông, hai con giao long thường gây sóng to, gió lớn khiến thuyền bè không thể qua lại.

Một hôm, có nàng công chúa đi thuyền qua khúc sông trên nhưng không thể đi nổi. Công chúa cho hỏi dân làng và được trả lời: “Sông trước kia vẫn gió yên, sóng lặng. Nhưng từ ngày đôi rắn được thả ra đây mới có hiện tượng này”. Công chúa lập tức cho gọi ông bà đến hỏi tội. Lúc này, ông lão đã mất, bà lão sợ quá liền chạy ra bờ sông khấn rằng: “Nay có thuyền đi qua mà con gây sóng gió ngăn cản thì mẹ sẽ bị tội”. Bà lão vừa dứt lời, lập tức mặt sông phẳng lặng thuyền đi qua an toàn. Nhưng khi đoàn thuyền đi khỏi thì sóng gió lại nổi lên dữ dội. Thấy linh ứng, dân làng khiếp sợ bèn lập miếu thờ gọi là miếu ông Cộc, tức Hắc Long Quân và miếu ông Dài, tức Bạch Long Quân.

Về đền Tranh
Đoàn rước Quan lớn Tuần Tranh tại Lễ hội đền Tranh năm 2024.

Về chuyện thờ hai ông rắn thần có nhiều dị bản khác nhau. Có tích kể rằng, Quan Lớn Tuần Tranh chính là con trai thứ 5 của vua Bát Hải Động Đình. Quan phủ Trịnh Thương Quân có một người vợ rất đẹp. Một hôm, bà đi thuyền chơi trên sông Tranh, bỗng thấy một người ngoi từ dưới nước lên đòi lấy bà làm vợ. Hiển nhiên là bà không nghe. Đến đêm, khi đang ngủ, bà thấy người đó hiện vào phòng, lại đòi nhất định phải lấy bà làm vợ.

Hôm sau, bà đem chuyện này kể lại với chồng. Quan phủ thấy làm lạ và có ý đề phòng. Một lần, quan phủ có việc ra ngoài khi về không thấy vợ đâu nữa. Quan phủ hốt hoảng, buồn rầu, không còn tâm trí để làm việc. Sau khi xin từ chức, ngài thường ra bến sông Tranh thơ thẩn tìm vợ. Một đêm, ngài mơ thấy Quỷ Cốc ở miền Hải Quốc mách rằng vợ mình đã bị hoàng tử thứ 5 của vua Thủy Tề bắt xuống làm vợ.

Thương người chồng chung tình, Quỷ Cốc tìm cách cho ngài xuống thủy cung của vua Thủy Tề kêu cứu. Vua Thủy Tề cho rằng con trai mình làm điều bất chính liền đày hoàng tử thứ 5 ra bến sông Tranh và cho vợ chồng viên quan phủ đoàn tụ. Từ đó, khúc sông này xuất hiện nhiều điều kỳ lạ. Sóng to, gió lớn thường xuyên nổi lên gây khó khăn cho thuyền bè đi lại. Dân làng phải lập đền thờ gần bến đò Tranh, nơi ngã ba sông. Ngôi đền nổi tiếng linh thiêng, thuyền bè qua lại đều phải dừng lại làm lễ cầu đảo mới được sóng yên gió lặng.

Anh Lưu Đức Anh Tuấn, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Hát văn xứ Đông, thành viên Ban Quản lý di tích đền Tranh cho biết, thời xa xưa, do hệ thống đê điều chưa hoàn thiện, dòng chảy chưa được nắn chỉnh, cải tạo nên tàu bè đi lại khó khăn. Khi chưa hoá giải được hiện tượng tự nhiên, con người hướng đến niềm tin tâm linh, cầu xin sự che chở, bao bọc và giúp đỡ của thế lực siêu nhiên, huyền bí.

Người dân tin rằng một thế lực siêu nhiên có sức mạnh to lớn đã gây nên hiện tượng này. Vì thế trải qua nhiều năm tháng, những câu chuyện truyền miệng về rắn thần đền Tranh ngày càng rõ ràng và có sức thuyết phục. Con rắn gần gũi, thân thuộc với miền sông nước song cũng có thể gây nguy hiểm. Có lẽ vì thế, dân gian chọn lựa con vật này để gửi gắm, truyền tải những ý niệm, niềm tin.

Dù có lý giải theo cách nào thì những câu chuyện về rắn thần đã theo suốt bao thế hệ, tạo nên sự kỳ bí, hấp dẫn cho ngôi đền linh thiêng. Suốt chiều dài lịch sử, dân gian cho rằng thủy thần có công giúp đỡ những người làm ăn trên sông nước, mang lại bình an, may mắn cho thuyền bè qua lại, nên được nhân dân thờ phụng, nhiều đời vua sắc phong tôn là Quan Đệ Ngũ Tranh Giang Đại vương Hoàng Hợp Tôn Thần.

“Hiện đền Tranh có nhiều con rắn được trang trí bám theo xà ngang, mái đền nhưng chỉ có 2 con thanh xà, bạch xà tượng trưng cho ông Cộc, ông Dài theo truyền thuyết được thờ tại đền. Còn lại là những con rắn do người dân thập phương khi biết tới câu chuyện rắn thần có nguyện vọng thỉnh rắn tại đền”, anh Tuấn cho biết.



Nguồn